Tinh bột ngô cải thiện chất lượng nước nuôi tôm thẻ
Nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp hiện nay được nhiều người nuôi tôm chú trọng. Tuy nhiên, tình hình sản xuất với mật độ quá dày dẫn đến chất thải ao nuôi nhiều, khí độc cao, tôm chậm lớn, tiêu hao thức ăn, tỷ lệ sống thấp dẫn đến thất bại.
Chính vì vậy, để giúp bà con có thể dễ dàng hơn trong quá trình nuôi tôm, phương pháp bổ sung nguồn thức ăn giúp giảm thiểu thải ra môi trường là biện pháp cần thiết và tối ưu nhất.
Theo nghiên cứu của Xia và cộng sự. (2010) cho thấy tôm thẻ chân trắng sinh trưởng và phát triển tốt nhất với thức ăn có hàm lượng protein từ 38–40%. Tuy nhiên, việc sử dụng thức ăn giàu đạm dẫn đến tích tụ amoniac và nitrit trong môi trường nước. Do đó, nghiên cứu này đã khảo sát ảnh hưởng của việc bổ sung carbon cũng như tiềm năng của việc bao gồm carbohydrate trong thức ăn để nuôi tôm thẻ chân trắng.
Nguồn nước chuẩn bị cho thí nghiệm: Bốn tuần trước khi bắt đầu thử nghiệm, sự tăng trưởng biofloc được kích thích trong ba bể thả cá rô phi. Tinh bột ngô được thêm vào một giờ sau mỗi lần cho ăn để duy trì tỷ lệ C/N là 20 để kích thích sự phát của bioflocs.
Khi bắt đầu thử nghiệm tôm, cá rô phi được loại bỏ và nước biofloc từ ba bể này được trộn đều và phân bổ đều cho sáu bể thí nghiệm. Nước muối và nước máy được thêm vào để đưa lượng nước lên 600 L mỗi bể và độ mặn là 25 ppt.
Thí nghiệm được thực hiện trong 6 bể đặt trong nhà, có thể kiểm soát nguồn nước, nhiệt độ, cường độ ánh sáng. Ba nghiệm thức bao gồm COM-Feed (thức ăn thương mại), COM-Feed + CHO (thức ăn thương mại có bổ sung tinh bột ngô riêng biệt) và CHO-Feed (chế độ ăn viên được thực hiện bằng cách kết hợp thêm tinh bột ngô vào thức ăn thương mại)
Sau 4 tuần thí nghiệm các nghiệm thức có ảnh hưởng đáng kể đến sinh khối thu hoạch, hệ số chuyển đổi thức ăn và hiệu quả sử dụng protein, nitơ. Cụ thể, sinh khối thu hoạch và tỷ lệ hiệu quả protein cao nhất khi bổ sung carbohydrate (CHO) riêng biệt (xử lý COM-Feed + CHO), kế tiếp là nghiệm thức COM-Feed và thấp nhất là CHO-Feed.
FCR và hiệu suất nitơ trong nghiệm thức COM-Feed và COM-Feed + CHO không khác nhau, nhưng cao hơn ở nghiệm thức CHO-Feed (P 0,05).
Tỷ lệ sống không khác nhau giữa các nghiệm thức nhưng có xu hướng cao hơn ở nghiệm thức COM-Feed + CHO so với nghiệm thức CHO-Feed và COM-Feed.
Tương tự, khối lượng cơ thể cuối cùng, tăng trọng và tốc độ tăng trưởng của tôm không khác nhau giữa các nghiệm thức (P> 0,05) nhưng có xu hướng cao hơn ở nghiệm thức COM-Feed và COM-Feed + CHO so với nghiệm thức CHO-Feed (P 0,1).
Việc bổ sung carbohydrate làm giảm đáng kể nồng độ nitơ vô cơ và orthophosphate trong nước. Nghiệm thức bổ sung tinh bột ngô riêng biệt COM-Feed+CHO và CHO-Feed có hàm lượng nitơ thấp hơn nghiệm thức COM-Feed.