TIN THỦY SẢN

Tôm bệnh thì vái tứ phương? - Phần 1

Đối với những hộ nuôi, việc quản lý các điều kiện ao nuôi và sức khỏe tôm hàng ngày là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Ảnh: Hải Yến. Thư Mai

Sự mở rộng ồ ạt và nhanh chóng của ngành nuôi tôm Việt Nam đã dẫn đến một số thách thức xã hội, kinh tế và môi trường, ví dụ: chuyển đổi diện tích đất lúa, ruộng muối lớn ven biển thành ao nuôi tôm; thiếu sót trong quản lý môi trường và dịch bệnh, quy hoạch và cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản không đầy đủ.

Dịch bệnh trên tôm có tác động tiêu cực đến kinh tế ở Việt Nam và các nước khác. Gần đây, hội chứng chết sớm hay bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND) liên quan đến vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus đã làm gián đoạn sản xuất tôm ở Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam với thiệt hại mỗi năm lên đến hàng tỷ USD. Nhiều trang trại mất mùa, phá sản. Bên cạnh EMS/AHPND, các bệnh tôm quan trọng nhất có nguồn gốc vi rút bao gồm bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, hội chứng taura và bệnh parvovirus gan tụy.

Người nuôi đang chống lại dịch bệnh trên tôm thông qua các biện pháp phòng ngừa và điều trị bằng các chất kháng sinh, chất khử trùng và một số hợp chất khác. Việc sử dụng các hợp chất khác nhau nhưng không được kiểm soát đầy đủ làm tốn kém, và có thể gây nguy hại cho sức khỏe của tôm, người nuôi cũng như môi trường thủy sản và an toàn thực phẩm. 

Các báo cáo gần đây ghi nhận nhiều sản phẩm kháng sinh kém chất lượng nhưng được bán phổ biến cho các hộ nuôi tôm và cá Việt Nam sử dụng. Nhận thức rủi ro và các hành vi quản lý rủi ro đã được nghiên cứu trong số những người nuôi tôm Việt Nam ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, các dự án cải thiện nuôi trồng thủy sản gặp phải những thách thức trong việc duy trì sự hợp tác giữa người nuôi về sản xuất và những rủi ro môi trường mà người dân phải chịu. 


Mô hình nuôi tôm chuyển sang hướng bán thâm canh và thâm canh đòi hỏi người nuôi cần có thêm kiến thức, kỹ năng chuyên môn và quản lý tài chính. Ảnh Tâm An.

Hình thức nuôi tôm quảng canh truyền thống ở Việt Nam yêu cầu đầu tư vốn thấp nhưng do phát triển thành các trang trại nuôi bán thâm canh và thâm canh, nên cần có thêm kiến thức, kỹ năng chuyên môn và quản lý tài chính. Người nuôi chia sẻ rằng bán một vụ tôm khỏe mạnh sẽ thu được lợi nhuận để trang trải chi phí của ba vụ tôm bị hỏng. 

Tuy nhiên, nếu nông dân bị thiệt hại nhiều vụ do dịch bệnh hoặc lũ lụt, họ sẽ mắc một khoản vay lớn với các công ty tư nhân và nhà thuốc. Đối với những hộ nuôi, việc quản lý các điều kiện ao nuôi và sức khỏe tôm hàng ngày là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Các dấu hiệu bệnh của tôm phải được theo dõi liên tục. Các chất khử độc trong nước và ao nuôi, ví dụ: clo và các sản phẩm enzyme được sử dụng để giữ cho ao sạch. 

Nông dân chủ yếu nhờ đại diện công ty tư vấn về các khía cạnh kỹ thuật trong quản lý và nuôi tôm mà ít hỏi về việc sử dụng thuốc kháng sinh và các sản phẩm khác để ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh. Hơn nữa, người nuôi cũng dùng các loại thuốc kháng sinh điều trị bệnh nhiễm trùng ở người để kiểm soát dịch bệnh trên tôm. Các hộ nuôi ở tỉnh Nghệ An đã sử dụng thuốc kháng sinh mua từ hiệu thuốc địa phương, bao gồm oxytetracycline, ampicillin, tetracycline và clorocid (chloramphenicol). Một nông dân nói rằng “thuốc kháng sinh dùng cho người có chất lượng tốt và rẻ hơn thuốc kháng sinh bán cho tôm”.

Hầu hết người nuôi tôm dường như không phân biệt thuốc kháng sinh với các loại thuốc khác. Khi được hỏi cụ thể về kháng sinh là gì, các hộ nuôi sẽ đề cập đến các mục đích khác nhau của việc sử dụng kháng sinh, ví dụ: “Thuốc kháng sinh được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị bệnh”, “thuốc kháng sinh được sử dụng để điều trị bệnh gan tụy”, “thuốc kháng sinh như Clorocid (chloramphenicol) được sử dụng để điều trị bệnh đường ruột”,… Với một số trường hợp ngoại lệ, nông dân không biết rằng chỉ các bệnh liên quan đến vi khuẩn và không liên quan đến vi rút mới có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh và hầu hết họ không biết liệu bệnh có nguồn gốc vi khuẩn hay vi rút. Ngoài thuốc kháng sinh, người nuôi cũng sử dụng thêm vitamin, khoáng chất và chế phẩm sinh học. Theo một kỹ sư nuôi trồng thủy sản ở Nghệ An, thỉnh thoảng nông dân bón các loại rau thơm, tỏi, chuối chín, mật mía, đường hoặc cám gạo vào ao nuôi để duy trì sức khỏe hoặc trị bệnh.

Các công ty thương mại có mặt ở nhiều thị trấn lớn và một số huyện nhằm bán tôm giống, thức ăn, kháng sinh, hóa chất và các hợp chất khác sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Một số công ty cũng hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn cho người nuôi tôm. Các hiệu thuốc ở các huyện và thị trấn bán thuốc kháng sinh được bào chế dùng cho người cho người nuôi tôm. 


Người nuôi cần hiểu đúng-đủ liều lượng, cách dùng của thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh naturalblaze

Ngoài giao dịch với nông dân, các công ty Trung Quốc, chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau trực tiếp cho nông dân, bao gồm đào tạo, kiểm tra chất lượng nước và tình trạng của tôm. Việc tiếp cận các dịch vụ như vậy đòi hỏi người nông dân phải là khách hàng của công ty. Đại diện công ty quảng bá sản phẩm của họ cho nông dân trực tiếp tại các ao nuôi và một khi nông dân là khách hàng, các công ty thường xuyên đến thăm để thảo luận về thách thức quản lý ao nuôi, đưa ra lời khuyên và bán sản phẩm của họ. 

Ngược lại với sự tương tác thường xuyên giữa người nuôi với các công ty tư nhân, sự tương tác giữa người nuôi và đại diện chính quyền cấp tỉnh hoặc cấp huyện dường như hạn chế hơn nhiều. Tương tác giữa đại diện cơ quan nhà nước và người nuôi tôm liên quan đến bốn loại hoạt động chính: 1) Các hoạt động đào tạo và phát triển kỹ năng để tăng cường quản lý ao nuôi; 2) Chứng nhận VietGAP nhằm thúc đẩy thực hành nuôi tốt bao gồm đăng ký các hợp chất và thuốc áp dụng cho ao nuôi; 3) Tiếp cận của các Chi cục cấp khu vực và cấp huyện, các chuyên gia nuôi trồng thủy sản để tư vấn cho nông dân, lấy mẫu và xét nghiệm nước và sức khỏe tôm, xác định và chẩn đoán mầm bệnh; 4) Bán ấu trùng tôm, thuốc thú y hoặc thức ăn chăn nuôi trực tiếp từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho người nuôi. 

Các trung tâm khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn địa phương thường tổ chức các lớp tập huấn chủ yếu về các kỹ thuật canh tác khác nhau, nhưng ít chú ý đến việc sử dụng thận trọng và đúng cách các chất kháng sinh và các sản phẩm khác để ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh. 

Tuy nhiên, theo các cuộc phỏng vấn với người nuôi, họ cho rằng tài liệu tập huấn không phù hợp với điều kiện nuôi của họ và nếu quản lý ao nuôi tôm theo hướng dẫn được cung cấp, hiệu quả đạt được không như mong đợi. Một nông dân 45 tuổi ở tỉnh Nghệ An kiến nghị: “Cần có phương pháp tập huấn để người nuôi học hỏi, áp dụng. Các cơ quan chính phủ khác nhau không có sự phối hợp khi điều tra các đợt bùng phát dịch bệnh”. Trong một cuộc thảo luận nhóm với người nuôi ở tỉnh Quảng Ninh, người ta cho rằng khi họ làm theo các tài liệu hướng dẫn do chính quyền cung cấp, họ vẫn chưa thành công. “Ví dụ, một tài liệu cho rằng sử dụng vitamin C và khoáng chất có thể ngăn ngừa dịch bệnh và tăng sức đề kháng cho tôm, nhưng thực tế là tôm vẫn bị bệnh phân trắng”. Các hộ nuôi nói rằng mỗi trang trại và thậm chí các ao nuôi cá nhân có điều kiện môi trường khác nhau, do đó, các giải pháp nên được trang trại hóa và ao hóa cụ thể.

Kính mời quý độc giả theo dõi phần 2: Thực trạng chương trình VietGAP, người nuôi và các cơ quan ban ngành nói gì?

Nguồn: Tran, K. C., Dalsgaard, A., Van, P. T., & Tersbøl, B. P. (2021). To pray in four directions: Understanding Vietnamese farmers’ shrimp health management practices. Aquaculture, 536, 736406. 

Thư Mai