Giải pháp để hạ giá thành tôm Việt
Phát biểu của ông Lê Văn Quang phân tích chi tiết khoản tiền 10.000 tỷ đồng ngành tôm mất đi hàng năm và kiến nghị một số giải pháp để hạ giá thành tôm Việt Nam xuống bằng Ấn Độ trước năm 2030, bằng Ecuador trước năm 2035.
Đề nghị Chính phủ mạnh tay với kháng sinh
Ông Quang phân tích ngành tôm Việt Nam mất 10.000 tỷ đồng mỗi năm vì thói quen nuôi tôm có sử dụng kháng sinh. Gồm chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để kiểm và kiểm soát kháng sinh từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, khoản chi phí không nhỏ đã kéo dài hàng chục năm qua. Chi phí kiểm kháng sinh ở các nước nhập khẩu mà doanh nghiệp phải chịu và bị trừ vào giá bán.
Cũng vì thế, cơ hội bán hàng bị giảm đáng kể do thời gian thông quan kéo dài để chờ thời gian lấy mẫu và chờ kết quả kiểm kháng sinh, khiến khả năng cạnh tranh của tôm bị giảm sút.
Hiện tại giá thành tôm nguyên liệu Việt Nam cao hơn 30% so với Ấn Độ và cao hơn gấp đôi so với Ecuador đã làm con tôm Việt Nam mất sự cạnh tranh so với tôm các nước.
Tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, hàng năm kim ngạch xuất khẩu tôm chiếm từ 40 – 45% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Vì vậy, để phát triển ngành thủy sản nên chú trọng nhiều hơn phát triển con tôm, từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến, xuất khẩu, giúp con tôm Việt Nam cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới.
Ông Quang kiến nghị “Chính phủ mạnh tay với kháng sinh; kiểm kháng sinh liên tục và thường xuyên ở vùng nuôi, nếu phát hiện kháng sinh phải hủy ao tôm đó ngay thì mới dẹp được thói quen dùng kháng sinh của người dân; kiểm soát chặt chẽ và xử lý thật mạnh tay với công ty và người bán thuốc, hóa chất, chế phẩm vi sinh... có trộn kháng sinh là cắt giấy phép kinh doanh và xử lý hình sự”.
Xây dựng cơ chế hợp tác công tư để giảm giá thành
Đồng thời, ông Quang cũng “Đề nghị Chính phủ cho phép xây dựng cơ chế được hợp tác công tư giữa Doanh nghiệp với các Viện nghiên cứu, trong đó có Viện nghiên cứu và nuôi trồng thủy sản II để giảm giá thành tôm nuôi”. Hợp tác trong các vấn đề cụ thể:
Gia hóa cải thiện di truyền tôm bố mẹ sú và tôm bố mẹ thẻ chân trắng để tạo ra tôm giống có khả năng chống chịu tốt và thích ứng tốt với dịch bệnh, thời tiết, khí hậu và môi trường của từng vùng miền của Việt Nam. Sản xuất ra tôm giống chất lượng cao kháng bệnh và thích nghi với thời tiết khí hậu, môi trường của từng vùng miền của Việt Nam, đưa tỷ lệ thành công của ngành nuôi tôm Việt Nam đến năm 2030 đạt trên 60% và đến năm 2035 đạt trên 80% (hiện tại tỷ lệ thành công của nuôi tôm Việt Nam dưới 40%).
Siêu thâm canh | Thâm canh |
Mật độ cao (300-400 PL/m2) | Mật độ thả vừa (100-120 PL/m2) |
Thay nước thường xuyên (30-50% hàng ngày) | Tối ưu hóa việc thay nước (7-10%) |
Chủ động sử dụng hóa chất | Sử dụng hóa chất tối thiểu, sử dụng tảo, men vi sinh |
Tập trung vào tỷ lệ phát triển (TLSS thấp, FCR cao) | Tập trung vô kháng bệnh (TLSS ổn định và FCR) |
Rủi ro cao, lợi nhuận cao | Rủi ro trung bình, lợi nhuận trung bình |
Đề xuất giải pháp chuyển từ các phương pháp nuôi tôm tốn nhiều chi phí để tối đa hóa sản lượng, sang phương pháp đạt sản lượng ổn định đồng thời tối ưu hóa chi phí lưu động, nuôi tôm có khả năng chống chịu tốt, nuôi tôm bền vững, vừa sức tải của môi trường
Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện các mô hình nuôi tôm sú rừng, tôm sú quảng canh, tôm sú bán thâm canh, tôm sú - lúa, tôm sú thâm canh, tôm thẻ chân trắng thâm canh và tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh công nghệ cao với giá thành thấp phù hợp với từng vùng miền của Việt Nam.
Theo ông Quang, với các giải pháp trên nếu Việt Nam làm ngay trong năm nay và làm quyết liệt thì giá thành con tôm Việt Nam sẽ bằng Ấn Độ trước năm 2030 và bằng Ecuador trước năm 2035. Giá thành giảm sẽ giúp người nuôi tôm làm giàu trên chính mảnh đất của mình và giúp các doanh nghiệp chế biến tôm có lợi nhuận tốt hơn để xây dựng ngành tôm vững mạnh, bền vững, giúp đất nước giàu mạnh hơn.