TIN THỦY SẢN

Loài tảo biển mới đặc hữu của Việt Nam

Loài Mallomonas doanii sp. nov. (chụp dưới kính hiển điện tử truyền qua (TEM). Ảnh: trungtamnhietdoivietnga.com.vn Hồng Huyền

Các chuyên gia của Việt Nam và Nga đã phát hiện và mô tả một loài tảo mới thuộc chi Mallomonas, phân ngành Ouradiotae (Chrysophyceae, Synurales) dựa trên các mẫu vật thu thập được từ sáu địa điểm thuộc bốn tỉnh của Việt Nam.

Bao gồm, Kiên Giang (Đảo Phú Quốc), Đồng Nai, Phú Yên, Thừa Thiên Huế. Cụ thể, mẫu được lấy từ 400 thủy vực khác nhau tại miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt Nam. Các chuyên gia cho rằng loài tảo Mallomonas doanii chỉ được tìm thấy ở 6 thủy vực, do đó có thể nói rằng đây là loài quý hiếm và đặc hữu ở Việt Nam.

Phân bố và hình ảnh của loài Mallomonas doanii thu được ở Việt Nam. Ảnh: Ảnh: trungtamnhietdoivietnga.com.vn

Lớp tảo vàng ánh (Chrysophyceae) gồm nhiều loài có hình thái đa dạng (các hình amíp, monad, hạt, tập đoàn palmella, sợi,  bản, cây...). Dạng chuyển động thường có 1 hay 2 lông roi (không đều nhau). Sắc tố trong tế bào là chlorophyl a và c, carotenoid và xantophin. Màu tảo thay đổi từ vàng kim, vàng xanh hay nâu xanh, sản phẩm tạo thành không phải là tinh bột mà là leucosin. 

Một số loài tảo không có thành tế bào, nhiều loài có thành tế bào và vỏ giáp. Thành tế bào và vỏ giáp là cellulose và pectin, có thể có thấm hay không thấm silic. Phần lớn phân bố chủ yếu ở các thủy vực nước ngọt chưa bị ô nhiễm có mức dinh dưỡng trung bình hay nghèo, có khí hậu lạnh hay mát. Phần lớn có đời sống tự dưỡng, phù du, một số loài dị dưỡng. Ít gặp các loài sống trong đất ẩm hay ở đáy nước. Nhiều loài tảo vàng ánh là thức ăn cho các động vật phù du.

Lớp tảo vàng ánh là một nhóm tảo phổ biến, bao gồm khoảng 1.200 loài, tuy nhiên qua các nghiên cứu di truyền phân tử cho thấy sự đa dạng của chúng bị đánh giá thấp ở cả hệ sinh thái nước ngọt và biển. Nhiều nhóm tảo vàng ánh có cấu trúc ngoại bào, trong số đó nổi bật họ tảo Mallomonadacea thuộc bộ Synurales. Các tế bào tảo Synurales được bao phủ bởi vảy silica có cấu trúc phức tạp, thường nằm sát nhau với sự hình thành lớp vỏ liên tục. Hình dạng và siêu cấu trúc của silica các yếu tố (như vảy và setae), mang tính đặc trưng của loài và có giá trị trong phân loại.

Mallomonas là một chi thuộc họ Mallomonadacea, lớp Chrysophyceae bao gồm các sinh vật nhân chuẩn tảo đơn bào và được đặc trưng bởi lớp phủ tế bào phức tạp được làm từ vảy và lông cứng bằng silica. Phương pháp định danh loài thường dùng là dựa trên các đặc điểm hình thái được quan sát thông qua kính hiển vi điện tử và kính hiển vi điện tử (TEM).

Ảnh chụp quang học của Mallomonas. Ảnh: researchgate.net

- Hình 2-4. Mallomonas cuspis Dongho022517B3. Thanh tỷ lệ = 10 µm.

+ Hình 2. Tế bào hình trứng với plastid (P) ở cả hai cạnh của tế bào.

+ Hình 3. Tế bào hình cầu với plastid (P) và một roi dài (F) trải dài ở phía trước tế bào.

+Hình 4. Tế bào hình trứng có plastid, một roi dài và lông cứng (mũi tên) trải dài theo mọi hướng.

- Hình 5-7. M. marina Dongho031817J. Thanh tỷ lệ = 10 µm.

+ Hình 5. Tế bào hình trứng thuôn dài với plastid (P), vảy và lông cứng (mũi tên) trải dài theo mọi hướng. Sự xuất hiện của các cấu trúc bao phủ tế bào là rõ ràng trong LM.

+ Hình 6. Tế bào hình trứng với plastid, vảy (S) và lông cứng (mũi tên) nằm với đầu của chúng hướng về phía sau của tế bào.

+ Hình 7. Tế bào hình trứng có roi dài (F).

Loài mới Mallomonas doanii sp. nov, mô tả dựa trên hình thái của vảy silica và lông cứng quan sát được bằng kính hiển vi điện tử (TEM). Vảy của loài mới có kích thước nhỏ và hình bầu dục rộng, không có mái vòm, có các gai rải rác trên khiên và một hoặc hai hàng gai trên mép trước, gân chữ V có đáy hình bầu dục rộng, dịch chuyển về giữa và liên tục với các gân cận biên trước. Lông của M. doaniicó gốc rộng và dẹt và đầu xa chẻ đôi với phần giữa rộng, tròn so với các loài có cấu trúc hình thái tương tự (M. ouradion, M. cronbergiae, M. acidophilaM. korshikovii). Mallomonas doanii sp. nov được tìm thấy trong điều kiện trung dưỡng đến siêu dưỡng được đánh giá bằng nồng độ diệp lục a. Môi trường này có tính axit (pH 4,7-6,6), giá trị độ dẫn điện riêng thấp (10-55 μS/cm) và nhiệt độ (24-32oC).

Tảo có vảy silic đã được báo cáo ở đất liền của nhiều quốc gia như Malaysia chỉ có 30 loài được ghi nhận. Hay trong quá trình điều tra hơn 200 vùng nước Ấn Độ, 58 loài tảo lam vảy silic đã được báo cáo. Các nghiên cứu về 11 tỉnh của Trung Quốc nằm ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của đất nước này chỉ phát hiện ra 49 loài tảo lam vảy silic. 

Ở các quốc gia nhiệt đới khác (ví dụ: Brazil, Colombia, Guatemala và Jamaica), số lượng loài ít hơn 30. Điều thú vị là một số khu vực ở vùng ôn đới có sự đa dạng tương đương với điều kiện môi trường ở các địa điểm Việt Nam, đây là những điểm nóng về đa dạng sinh học đối với các loài thực vật có vảy silic, ví dụ như vùng Aquitaine ở Pháp, nơi có 58 loài Synura và Mallomonas được ghi nhận, và vùng lãnh nguyên Bolshezemelskaya, với 75 loài thực vật có vảy silic. Tuy nhiên những vùng trên đều không ghi nhận báo cáo có loài Mallomonas doanii.

Hồng Huyền