TIN THỦY SẢN

Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản quốc gia

Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản quốc gia đúng cách Sáu Nghệ

Ngày 9/5/2024, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã ký Quyết định số 389/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại.

Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản

Quy hoạch đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030 sẽ có 27 khu bảo tồn biển được thành lập và hoạt động hiệu quả với tổng diện tích vùng biển khoảng 463.587ha, chiếm 0,463% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia (các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia). Bên cạnh, có 149 khu vực ở vùng biển (59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản) và 119 khu vực nội địa (66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 53 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn) được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống của các loài thủy sản.

Tổ chức quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển để phục hồi nguồn lợi, đặc biệt các loài thủy sản có giá trị kinh tế, loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản đặc hữu. Tăng cường công tác quản lý, đánh giá, bảo tồn, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản trên các loại hình thủy vực ở vùng nội địa và vùng biển.

Gắn bảo tồn với phát triển du dịch sinh thái biển, góp phần bảo vệ, sử dụng bền vững hệ sinh thái biển và các nguồn tài nguyên biển; bảo vệ không gian di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, phát triển kinh tế du lịch biển. Hình thành khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản có giá trị kinh tế, khoa học, loài thủy sản bản địa, loài thủy sản đặc hữu trên các vùng biển.

Giảm dần sản lượng thủy sản khai thác

Điều chỉnh tỷ trọng sản lượng khai thác giữa các vùng biển, phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản; khai thác có chọn lọc các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao. Điều chỉnh số lượng tàu cá khai thác thủy sản, chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực vùng nội địa, vùng biển phù hợp với khả năng cho phép khai thác của nguồn lợi, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển. Gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí.


Đánh bắt cá

Đến năm 2030, tổng số tàu cá tối đa khoảng 83.600 chiếc với tổng số lao động giảm xuống còn khoảng 600.000 người. Cơ cấu nghề khai thác thủy sản: Nghề lưới kéo chiếm 10%; nghề lưới vây 6,1%; nghề lưới rê 40,3%; nghề câu 18,9%; nghề lưới chụp 3,0%; nghề lồng bẫy 2,9%...

Hoàn chỉnh hệ thống cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá thành một hệ thống liên hoàn, liên vùng đáp ứng nhu cầu neo đậu, dịch vụ hậu cần nghề cá. Củng cố, đổi mới các tổ, đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá; tổ chức sản xuất thủy sản khai thác theo chuỗi giá trị, chú trọng tăng giá trị sản xuất. Đến năm 2030, khoảng 80% tàu cá khai thác thủy sản ở vùng lộng và vùng khơi tham gia chuỗi liên kết sản xuất trên biển.

Có nghề cá phát triển bền vững vào năm 2050

Tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương các nước có nghề cá phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đa dạng sinh học biển và các thủy vực nội địa được bảo tồn và phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; góp phần bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, trên biển của Việt Nam. Phát triển khai thác thủy sản bền vững, có trách nhiệm, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai.

Nhu cầu vốn thực hiện Quy hoạch đến năm 2030 khoảng 8.166 tỷ đồng, bố trí từ ngân sách nhà nước, huy động ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Sáu Nghệ