TIN THỦY SẢN

Tiền Giang: Để nghề khai thác thủy sản phát triển bền vững

Ngư dân vận chuyển cá tại thị trấn Vàm Láng, Gò Công Đông. Thành Công

Trong khi nguồn lợi thủy sản cạn kiệt do hoạt động khai thác chưa được quản lý chặt chẽ, khiến cho nghề khai thác thủy sản đứng trước áp lực, buộc phải thay đổi để tồn tại. Trước tình hình này, điều cần quan tâm hiện nay là cần chuyển đổi từ những nghề gây tổn hại lớn đến nguồn lợi thủy sản sang nghề ít gây tổn hại hơn, tìm kiếm mô hình cộng đồng quản lý nguồn lợi thủy sản bền vững.

Theo số liệu thống kê của Chi cục Thủy sản, tính đến cuối 2015, tổng số tàu cá đăng ký của tỉnh là 1.205 tàu với công suất máy là 361.598 Cv - mặc dù gần đây, nhiều ngư dân đã mạnh dạn bán tàu nhỏ, sử dụng vốn tự có hoặc vay vốn ngân hàng đóng tàu mới có công suất lớn vươn khơi khai thác thủy sản vùng biển xa.

Tuy nhiên, đến nay, nghề cá Tiền Giang vẫn còn dáng dấp của nghề cá quy mô nhỏ khi số lượng tàu nhỏ hơn 90 Cv vẫn chiếm tới 26% tổng số tàu trên địa bàn tỉnh với 323 tàu (12.588 Cv), 30% tổng số lao động hoạt động chủ yếu ở ven bờ. Hầu hết các tàu đánh cá đều được đóng bằng gỗ, các máy tàu được sử dụng phần lớn là máy cũ hoặc dùng các máy ô tô vận tải hạng nặng đã cũ để lắp đặt.

Khảo sát sơ bộ các tàu đánh cá xa bờ của tỉnh cho thấy, số tàu lắp máy cũ chiếm hơn 90% tổng số tàu khai thác xa bờ, trang thiết bị khai thác chưa đầy đủ hoặc chưa khai thác hết tính năng của thiết bị, nên hạn chế hiệu quả khai thác. Mặc dù, tỉnh có tới 25 cơ sở đóng tàu có khả năng đóng mới 160 chiếc/năm và sửa chữa 300 chiếc/năm, nhưng lại thiếu những nhà máy đóng tàu hiện đại để đóng tàu cá bằng vật liệu kim loại hoặc các loại vật liệu mới. Chưa kể, hầu hết các ngư cụ vẫn phải nhập khẩu, do các cơ sở sản xuất trong nước không đáp ứng được về số lượng, chất lượng.

Ngoài ra, theo thống kê chưa đầy đủ của các địa phương, số lượng lao động khai thác hải sản trên địa bàn tỉnh tăng từ 7.241 người (năm 2001) lên khoảng gần 13.862 người (năm 2015), bình quân mỗi năm tăng khoảng 472 người.

Những năm gần đây, trình độ học vấn của ngư dân có tăng, song phần lớn chưa tốt nghiệp tiểu học với 60%, hơn 28% tốt nghiệp tiểu học, khoảng gần 10% có trình độ trung học cơ sở và 0,65% đã qua đào tạo tại các trường dạy nghề hoặc có trình độ cao đẳng, đại học.

Với trình độ học vấn thấp, ngư dân gặp khó khăn trong việc tiếp thu kỹ thuật mới, nhất là kỹ thuật khai thác xa bờ. Hệ quả tất yếu là dù sản lượng khai thác hải sản liên tục tăng, nhưng chất lượng sản phẩm khai thác được thường có kích thước nhỏ, có chất lượng thấp, cá tạp chiếm tỷ lệ cao.

Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng nghề cá phục vụ cho hoạt động khai thác và tiêu thụ thủy sản của tỉnh còn nhỏ bé, manh mún khi trên địa bàn tỉnh chỉ có 02 cảng cá: Vàm Láng và Mỹ Tho với công suất tiếp nhận chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ nghề khai thác thủy sản của tỉnh, cũng như các tàu cá các tỉnh trong khu vực có nhu cầu cập cảng để bán cá.

Mạng lưới chợ cá còn ở trạng thái đang phát triển, hình thức bán đấu giá ở các chợ cá chưa hình thành. Việc mua bán, tiêu thụ cá ở các chợ cá phần lớn do các tư thương đảm nhiệm, nên tình trạng thương lái ép giá thu mua sản phẩm của ngư dân khi số lượng tàu cập cảng nhiều vẫn còn xảy ra khá phổ biến.

Theo Chi cục Thủy sản Tiền Giang, ngư trường khai thác chủ yếu của các đội tàu Lưới vây kết hợp ánh sáng, Lưới rê, Câu mực của tỉnh từ 6030" đến 140 Vĩ độ Bắc, 1060 đến 1170 Kinh độ Đông vùng biển Đông Nam bộ, Trường Sa và DK1. Riêng đội tàu Lưới kéo, Đóng đáy, Câu tay, nghề khác... ngư trường hoạt động chủ yếu ở khu vực Ba Động, Vũng Tàu, Nam Côn Sơn. Đây không chỉ là ngư trường của các tàu cá Tiền Giang mà còn là ngư trường khai thác thủy sản của hầu hết các tàu cá trên cả nước.

Điều này đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong khai thác xa bờ với cường độ cao. Vì cuộc sống trước mắt, nhóm ngư dân này dùng mọi biện pháp để đánh bắt như giảm kích thước mắt lưới, lưới có nhiều lớp, tăng cường độ khai thác... Sự suy giảm nguồn lợi cá đã ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt của các loại nghề khai thác hải sản. Tỷ lệ cá tạp, cá con trong các mẻ lưới ngày càng cao, chiếm 40 - 95% sản lượng đánh bắt, tùy theo loại ngành nghề khai thác.

Trong khi đó, giá nhiên liệu và chi phí đầu vào cho khai thác tăng không ngừng, đang gây ra những khó khăn lớn cho ngành khai thác hải sản. Hiệu quả kinh tế của các hoạt động khai thác xa bờ mặc dù đang khá hấp dẫn, nhưng đến giai đoạn mất cân đối giữa năng lực khai thác và nguồn lợi thủy sản, thì các tàu cá buộc phải tận thu sản phẩm, từ đó dẫn đến giảm sút nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng, hiệu quả khai thác giảm.

Trước những khó khăn của ngành khai thác thủy sản, để nghề khai thác hải sản ở Tiền Giang phát triển bền vững, thì các mô hình quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng là giải pháp quan trọng hàng đầu để tổ chức lại hoạt động khai thác thủy sản.

Tuy nhiên, để có thể triển khai được mô hình này, trước mắt, ngành thủy sản cần cải thiện mạng lưới số liệu thống kê, nhân rộng mô hình hợp tác xã trong khai thác, tiêu thụ hải sản, từ đó tạo ra cơ cấu nghề khai thác thủy sản hợp lý, thân thiện với môi trường bằng cách chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, từ những nghề gây tổn hại lớn đến nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sản sang nghề ít gây tổn hại đến nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của chúng hoặc những nghề khác ngoài khai thác thủy sản; chuyển đổi nghề sử dụng nhiều nhiên liệu trong khai thác hải sản sang những nghề ít tiêu hao nhiên liệu hơn.

Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần ban hành và kiện toàn khả năng giám sát việc thực thi các quy định cụ thể liên quan đến hoạt động khai thác thủy sản thông qua các mô hình mạnh có quy mô cộng đồng về quản lý, khai thác và tiêu thụ các sản phẩm cho ngư dân.

Thành Công Tiền Giang, 23/06/2016