Triển vọng cứu vớt loài tôm
Gần đây nghiên cứu đến từ một loại thảo dược truyền thống có nguồn gốc từ Trung Quốc, các chất dinh dưỡng được thu hồi từ bụi của loài thực vật này sẽ giúp mang nhiều lợi ích về mặt sinh học và được chứng minh là có thể bảo vệ loài tôm khỏi sự bùng phát WSSV- bệnh đốm trắng và AHPND- bệnh hoại tử gan tụy cấp.
Loài thực vật bí ẩn giúp ngăn ngừa bệnh trên tôm
Camellia sinensis (còn gọi là chè hay trà) – là loài cây mà lá và chồi được sử dụng để sản xuất trà, các sản phẩm như trà xanh, trà ô long, trà đen,..tất cả đều được chế biến từ loài này, nhưng ở các mức độ oxy hóa khác nhau. Loài thực vật này có xuất xứ từ Đông Á, Nam Á và và Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ. Lá trà được dùng trong Đông y để trị hen phế quản (như một loại thuốc trị hen suyễn), nhiệt miệng, đau thắt ngực, bệnh tim mạch vành và bệnh mạch máu ngoài, là thức uống rất có lợi cho sức khỏe, góp phần ngừa ung thư, giảm cholesterol, diệt khuẩn và giảm cân.
Diễn biến cuộc nghiên cứu
Trong số những tác nhân gây bệnh tàn phá nhất mà ngành nuôi tôm toàn cầu phải đối mặt , bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND - Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease) và virus hội chứng đốm trắng (WSSV - White Spot Syndrome Virus) là hai chứng bệnh gây thiệt hại nhiều nhất, làm cho các nhà nghiên cứu phải đau đầu và hiện khiến ngành này thiệt hại hơn 3 tỷ USD mỗi năm.
Những thách thức trong các cuộc thử nghiệm gần đây tại Cơ sở nghiên cứu nuôi trồng thủy sản của Đại học Arizona, các nhà khoa học đang điều tra xem liệu catechin (một loại chất chống oxy hóa được chiết xuất từ lá trà xanh) có trong cây Camellia sinensis có khả năng tiêu diệt các gốc mầm bệnh tự do nguy hiểm trong phạm vi hoạt động rộng hơn của các loài hay không và có mang lại hiệu quả phòng bệnh, bảo vệ tôm nuôi trong việc chống lại các bệnh do vi khuẩn và vi rút này gây ra.
Gần đây nhất, một cuộc thử nghiệm đã được tiến hành nhằm tạo ra cách cung cấp các chất dinh dưỡng từ loài thực vật này cho một loạt các loài nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả tôm thẻ chân trắng sao cho hiệu quả nhất. Trước khi thử nghiệm, trong chất lỏng – sự phân hủy này là một trong những hạn chế chính, gây cản trở hiệu quả của catechin.
Trong quá trình thử nghiệm, các catechin phủ polyme được trộn vào thức ăn thương mại cho tôm, trước khi cho tôm tiếp xúc với một trong hai mầm bệnh. Hai thử nghiệm với AHPND, trung bình 60% số tôm được cho ăn 0,28 gam có catechin trên 1 kg thức ăn sống sót so với 5% của tôm được cho ăn thức ăn thương mại thông thường. Ở lần đầu tiên, 30% tôm sống sót và có 2 cá thể chết do ăn thịt lẫn nhau và có 90% tôm sống sót vào lần thứ hai. Trong khi đó, trong thử nghiệm WSSV, mặc dù tất cả tôm bị nhiễm bệnh đều đã chết nhưng những con được cho ăn chế độ ăn có chứa catechin phủ polyme có thể sống đến tám ngày sau khi tiếp xúc với vi-rút so với những con có chế độ ăn thông thường đã chết vào cuối ngày thứ nhất.
Kết quả cho ra rất ấn tượng theo đó sẽ có một số tinh chỉnh đặc biệt giúp cải thiện khả năng phòng bệnh trên tôm, bằng cách giảm kích thước của các hạt polyme để tôm có thể dễ dàng tiêu thụ, đồng thời cũng sẽ tăng nồng độ của các hoạt chất dự phòng với hy vọng sẽ đạt được kết quả phòng ngừa cao hơn với AHPND và ít nhất 50% với WSSV thông qua kích thước hạt nhỏ hơn và catechin mới được phủ polyme.
Những thách thức đằng sau dự án
Lợi ích sức khỏe của catechin trong trà đã được ghi nhận rộng rãi về khả năng tiêu diệt các gốc tự do nguy hiểm trong tế bào người và động vật. Theo các tài liệu nghiên cứu khoa học trước đây, tác động của chúng giảm đi rất nhiều do sự phân hủy và chuyển hóa nhanh chóng thông qua đường miệng.
Catechin có tác dụng với cả tôm lẫn con người. Nhưng vẫn cần nghiên cứu để đưa chúng vào máu mà không bị chuyển hóa. Ảnh: Tepbac
Tuy nhiên, nhờ các kỹ thuật khoa học như phủ polymer nên thời hạn sử dụng của catechin có thể được kéo dài thêm vài năm, qua đó cũng có sự cải thiện tác dụng trên một loạt loài, bao gồm cả con người khi sử dụng chúng. Nhưng thách thức đặt ra là làm cách nào để đưa chúng vào máu mà không bị chuyển hóa hoặc thoái hóa, trong các nghiên cứu lâm sàng với cả người và động vật, được biết catechin dự phòng chỉ hoạt động trong hơn 48 giờ.