Cá rồng châu Á

: The Asian arowana
: Scleropages formosus (Schlegel & Müller), 1844
: Cá mơn
Phân loại
Scleropages formosus(Schlegel & Müller), 1844
Ảnh Cá rồng châu Á
Đặc điểm sinh học

Cá rồng châu Á trưởng thành có thể đạt tổng chiều dài lên đến 90cm với thân dài; vây ngực lớn, thuôn dài; vây lưng và vây hậu môn nằm ở phía xa trên cơ thể; vây đuôi lớn hơn nhiều so với vây đuôi của các giống cá rồng khác. Miệng xiên, hàm dưới nổi bật có hai ngạnh ở đầu, miệng bao gồm răng, hàm, xương lá mía, vòm miệng, mộng thịt, xương hàm và lưỡi.

Vảy cá rồng châu Á lớn, hình xoáy, thường có màu kim loại như vàng, bạc, đỏ. Vảy đường bên thường được sắp xếp theo kiểu khảm đặc biệt như các đường gân nổi lên. Các vảy bên được sắp xếp theo hàng ngang được đánh số từ gần bụng nhất (cấp độ đầu tiên) đến cấp độ gần lưng nhất (cấp độ thứ năm), với vảy lưng là cấp độ thứ sáu.

Đặc điểm hình thái một số cá rồng châu Á phổ biến:

Cá rồng thanh long (Green arowana) có màu xanh lá cây đậm trên lưng, bạc hoặc xanh lục vàng ở hai bên, và bạc hoặc trắng trên bề mặt bụng, với những mảng màu xanh lục đậm hoặc hơi xanh có thể nhìn thấy qua lớp vảy bên. Ở cá trưởng thành, đỉnh mắt và đầu sau mắt có màu ngọc lục bảo sáng.

Cá rồng thanh long
Cá rồng thanh long. Ảnh: thucungaz.com

Cả cá rồng thanh long grey-tailed và thanh long yellow-tailed đều có màu xám đen trên lưng và bạc ở hai bên, với những mảng vòng sẫm màu trên vảy bên và bụng màu bạc hoặc trắng. Ở cá thể đuôi vàng, màng vây có màu vàng nhạt với các tia màu xám đen. Ở các cá thể đuôi xám, các vây có màu xám đen đồng nhất.

Cá rồng kim long hồng vỹ (red-tailed golden) mặc dù có vảy vàng nhưng vây hậu môn và vây đuôi lại có màu nâu đỏ.


Kim long hồng vỹ. Ảnh: saigonfish.com

Cá rồng kim long hồng vỹ trưởng thành có vảy bên màu vàng kim loại rực rỡ, nắp mang , bụng, màng vây ngực và vây bụng, mặc dù lưng có màu sẫm. Ở những con chưa thành niên, những khu vực có thể phát triển màu vàng bắt đầu là màu bạc kim loại. Vây hậu môn và phần dưới của vây đuôi có màu nâu nhạt đến đỏ sẫm.

Kim long lai trưởng thành được phân biệt với kim long hồng vỹ bằng màu vàng kim loại bắt chéo hoàn toàn mặt sau. Giống này cũng không có vây đỏ của vàng đuôi đỏ.

Ở những con cá rồng huyết long (super red) trưởng thành, nắp mang, vảy bên và màng vây của những loài cá này có màu đỏ kim loại, với màu sắc chính xác thay đổi từ nhuốm vàng đến đỏ đậm. Mặt sau màu nâu sẫm. Ở những con non, màu lưng càng đậm thì khi trưởng thành màu đỏ càng đậm.

huyết long
Huyết long.

Phân bố

Châu Á: Nam Myanmar đến bán đảo Mã Lai và Indonesia, đông Thái Lan đến dãy Cardamon.

  • Thanh long là loài phổ biến nhất, thường được tìm thấy ở Indonesia (Kalimantan và Sumatra), Việt Nam, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Malaysia.
  • Kim long hồng vỹ được tìm thấy ở miền bắc Sumatra, Indonesia.
  • Một số loài phổ biến khác được tìm thấy ở Pahang và khu vực Bukit Merah ở Perak, bán đảo Malaysia.
  • Huyết long phân bố ở phần thượng nguồn của sông Kapuas và các hồ gần đó ở phía tây Indonesia.
Tập tính

Cá rồng châu Á có nguồn gốc từ Đông Nam Á, trong tự nhiên thường sống ở các sông sẫm màu nơi dòng nước chảy chậm chảy qua các đầm lầy trong rừng. Cá trưởng thành ăn các loài cá khác, trong khi cá con ăn côn trùng.

Cá thường sống ở các hồ rộng hoặc các con sông rộng có dòng chảy chậm. Cá rồng là loài cá ăn tạp thức ăn của chúng gồm các loài côn trùng, một số loài cá nhỏ và cả ếch nhái.

Sinh sản

Một số quan sát về sinh sản được H.M.Smith (1945) nêu lên khi nghiên cứu cá mẫu ở Thái Lan. Trứng cá có kích thước to và số lượng ít, được ấp trong miệng cá bố cho tới khi trứng nở. 

Theo Møller, P.R. and W. Schwarzhans (2006), từ việc quan sát một cặp sinh sản trong bể nhân tạo, quá trình tán tỉnh kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Trong giai đoạn này, cặp sinh sản thường bơi gần mặt nước vào ban đêm. Cá đực rượt đuổi cá cái xung quanh chu vi bể. Đôi khi, chúng quay đầu đối mặt với nhau. Khoảng một đến hai tuần trước khi sinh sản, cá bơi cạnh nhau và chạm vào cơ thể của chúng. Cuối cùng, con cái phóng ra một chùm trứng màu đỏ cam. Con đực thụ tinh cho trứng rồi ngậm trứng vào miệng để ấp. Sau khi nở khoảng một tuần, ấu trùng non tiếp tục sống trong miệng con đực khoảng 7-8 tuần nữa cho đến khi túi noãn hoàng được hấp thụ hoàn toàn

Hiện trạng

Hiện nay cá rồng thiên nhiên còn rất ít đa số cá nuôi làm cảnh đều là thế hệ F2. Đây là loài cá rất hiếm. Theo các ngư dân cho biết loài cá này trước đây thỉnh thoảng đánh bắt được nhưng hiện nay hầu như không gặp nữa. Từ năm 1969 loài cá này được IUCN (Liên hiệp bảo vệ thiên nhiên quốc tế) bảo vệ. Có thể xem như ở mức E. Mức đe dọa: Bậc E. Hiện loài cá này mới được tìm thấy tại sông La Ngà thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên tỉnh Đồng Nai vào ngày 10 tháng 10 năm 1998 và suối Sai, phân trường Bà Hào thuộc Lâm trường Mã Đà ngày 4 tháng 2 năm 2003.

Cá Rồng châu Á là loài thuộc CITES I chỉ được buôn bán nếu chúng được gây nuôi sinh sản trong các trại đã đăng ký CITES. Ba điều kiện để các rồng được buôn bán thương mại là:

  • Cơ sở nuôi đã được đăng ký với cơ quan CITES
  • Mẫu vật phải từ thế hệ F2
  • Mẫu vật đã được gắn chíp
Tài liệu tham khảo

1. Kottelat, M., 2013. The fishes of the inland waters of Southeast Asia: a catalogue and core bibliography of the fishes known to occur in freshwaters, mangroves and estuaries. The Raffles Bulletin of Zoology 2013 (Suppl. 27):1-663.

2. Hà Công Tuấn, 2019. Nhận diện nhanh một số loài động vật hoang dã được công ước CITES và pháp luật Việt Nam bảo vệ, Cục kiểm lâm - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn/TRAFFIC Đông Nam Á, chương trình tiểu vùng Mê Kông mở rộng.

Cập nhật ngày 18/03/2021
bởi Thảo
Xem thêm