Ấu trùng ruồi lính đen tươi hay khô có hiệu quả cho cá
Trong nuôi cá lóc, khâu cho ăn chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 50-60% ) của chi phí sản xuất. Mặt khác, người tiêu dùng lại thích sử dụng các sản phẩm nuôi trồng thủy sản hữu cơ thay vì nuôi động vật trên thức ăn thương mại.
Vì vậy, việc tìm kiếm nguồn thức ăn tự nhiên có thể thay thế được hoặc thay thế một phần vào khẩu phần thức ăn thương mại của cá lóc là điều hết sức cần thiết. Một đánh giá gần đây về sử dụng ấu trùng ruồi lính đen trên cá lốc giống mở ra một hướng đi tiếp theo cho việc ứng dụng côn trùng thành nguyên liệu thay thế nguồn bột cá trong tình trạng khan hiếm và khó chủ động.
Hiện nay, việc sử dụng côn trùng làm thức ăn trực tiếp hoặc thành phần thức ăn cho động vật thủy sản đã được nghiên cứu rộng rãi. Các việc khai thác côn trùng làm nguyên liệu thức ăn không trực tiếp cạnh tranh với sản xuất lương thực, hạn chế tác động môi trường của hệ thống sản xuất, góp phần xây dựng nền kinh tế tuần hoàn và xã hội “không rác thải”.
Trong số các loài côn trùng được sử dụng làm thức ăn trực tiếp hoặc nguồn protein làm thức ăn nuôi trồng thủy sản, ấu trùng ruồi lính đen (Hermetia illucens) là nguồn thú vị nhất vì tính bền vững của nó liên quan đến khả năng chuyển đổi chất thải hữu cơ thành sinh khối chứa protein (40–55%), béo (30–35%) với axit béo có giá trị dinh dưỡng và tro (11–15%) với nồng độ khoáng chất cao và tỷ lệ Ca/P cao, góp phần vào chuỗi thức ăn và giảm ô nhiễm.
Hơn nữa, ruồi lính đen là một loài côn trùng vô hại, có vòng đời ngắn ngủi, chu kỳ sống 40 – 45 ngày và khả năng nuôi cấy sinh khối tại các trang trại quy mô nhỏ. Những đặc điểm thuận lợi này chứng tỏ ấu trùng ruồi lính đen là một ứng cử viên thức ăn tuyệt vời cho nuôi trồng thủy sản.
Trong nuôi trồng thủy sản, ấu trùng ruồi lính đen (BSFL) đã được nghiên cứu và sử dụng làm thức ăn trực tiếp hoặc thay thế một phần bột cá trong khẩu phần ăn của cá hồi Đại Tây Dương, cá rô phi, cá chép và cá chẽm.
Trên cơ sở đó, một thử nghiệm đã được được thực hiện để đánh giá hiệu quả của việc bổ sung ấu trùng ruồi lính đen tươi hoặc khô trong khẩu phần ăn đến hiệu suất sinh trưởng và thành phần hóa học của cá lóc nuôi ở các trang trại quy mô nhỏ.
Cụ thể, cá lóc giống có kích cỡ 5,15 ± 0,12 g được phân bố bố trí nuôi ngẫu nhiên vào 15 vèo (6 m3) ở mật độ 120 cá/lồng. Những con cá này được cho ăn thức ăn 100% thức ăn thương mại dùng làm đối chứng; 100% ấu trùng ruồi lính đen tươi; 100% ruồi lính đen khô; 50% ấu trùng ruồi lính đen tươi + 50% thức ăn công nghiệp) và 50% ấu trùng ruồi lính đen khô + 50% thức ăn công nghiệp.
Sau 60 ngày cho ăn liên tục, kết quả ghi nhận cá lóc ăn thức ăn bổ sung ấu trùng ruồi lính đen tươi vào khẩu phần ăn cho cá lóc không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn, cải thiện tăng trưởng và năng suất cá. Đồng thời không ảnh hưởng đến thành phần hóa học của cá. Cụ thể, thành phần gần đúng của thịt phi lê cá lóc ở kết thúc thí nghiệm, bao gồm cả hàm lượng chất khô (24,85 - 25,65 %), protein thô (15,35 - 15,75 %), chất thô lipid (5,31 - 5,57 %) và tro (3,22 - 3,51 %) không bị ảnh hưởng bằng cách đưa ấu trùng ruồi lính đen tươi và khô vào khẩu phần ăn của cá lóc (p>0,05). Kết quả chỉ ra rằng đưa ấu trùng ruồi lính đen tươi và khô lên tới 50% trong khẩu phần ăn của cá lóc không có ảnh hưởng tiêu cực đến thành phần cơ bản của cá.
Việc bổ sung ấu trùng tươi vào khẩu phần ăn cá lóc trong 60 ngày nuôi không ảnh hưởng hiệu suất tăng trưởng, hệ số điều kiện và thành phần hóa học của cá. Tuy nhiên, nó làm giảm PER và LER. Kết quả của nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng việc bao gồm bổ sung ấu trùng ruồi lính đen tỷ lệ 50% trong khẩu phần ăn của cá lóc đã cải thiện được FCR và duy trì được yếu tố thể trạng tốt, thúc đẩy tăng trưởng và tình trạng sức khoẻ của cá.
Sự phát hiện này cho thấy nông dân nên cho cá lóc ăn thức ăn công nghiệp cộng với thức ăn tươi ấu trùng ruồi lính đen giúp duy trì tình trạng tốt, tăng cường sự phát triển và sản lượng của cá. Tuy nhiên cần có nhiều đánh giá hơn về các thông số tăng trưởng, thông số miễn dịch cũng như thời gian theo dõi để lựa chọn một chế độ ăn hiệu quả nhất.