Thực trạng nuôi tôm toàn cầu
Khảo sát của Liên minh Thủy sản toàn cầu, năm 2023 sản lượng tôm nuôi cả thế giới khoảng 5,6 triệu tấn, giảm 0,4% so với năm 2022. Tôm thẻ chân trắng (TCT-Liptopenaeus vannamei) tiếp tục chiếm ưu thế, còn sản lượng tôm sú cũng tăng và năm 2023 đã đạt khoảng 550.000 tấn.
Diện tích và năng suất
Diện tích tiềm năng cho nuôi tôm toàn cầu khoảng 2,4 triệu ha. Có 5 quốc gia nuôi hàng đầu hiện nay là: Ecuador, Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Indonesia; chiếm khoảng 74% sản lượng toàn cầu. Tiếp theo là Thái Lan, Malaysia, Philippines, Myanmar, Brazil, Mexico, Venezuela và các nước khác.
Về năng suất nuôi tôm thương phẩm hàng năm. Hệ thống nuôi bán thâm canh (BTC) ở Ecuador từ 1–5 tấn/ha, thâm canh (TC) ở Ấn Độ 5–10 tấn/ha, siêu thâm canh (STC) ở Thái Lan 10–25 tấn/ha.
Năm 2023, sản lượng tôm ở Ecuador gần 1,49 triệu tấn, tăng khoảng 14% so với năm 2022. Trong lúc ở Ấn Độ, TCT giảm khoảng 12% so năm trước, tôm sú vẫn xu hướng tăng ổn định. Ở Indonesia TCT giảm khoảng 5%.
Ngành công nghiệp ở Ecuador đã được hưởng lợi rất nhiều từ các khoản đầu tư lớn vào cải tiến di truyền, công nghệ nuôi - đặc biệt là máy cho ăn tự động và sục khí cơ học. Ecuador và Ấn Độ đang có chi phí sản xuất thấp nhất. Trung Quốc đang mở rộng nhanh chóng công nghệ nuôi tôm nhờ việc sử dụng nhà kính và công nghệ RAS, để sản xuất quanh năm ở nhiều khu vực mà các ao nuôi truyền thống chỉ sản xuất một vụ mỗi năm.
Khó khăn, thách thức
Theo khảo sát của Liên minh Thủy sản toàn cầu, giá tôm giảm mạnh thời gian qua. Điển hình ở Ecuador giá tôm ở mức 6,8 USD/kg vào tháng 11/2021, giảm xuống còn 5 USD/kg vào tháng 7/2023, giảm gần 26%.
Trong lúc, chi phí thức ăn tăng. Với bột cá và dầu cá, trước đây giá trung bình là 1.496 USD/tấn và 2.348 USD/tấn nhưng năm 2023 vì nhiều nguyên nhân đã tăng lên 2.600 USD/tấn và 6.000USD/tấn; tăng gần 174% và gần 256%. Các nguồn protein thực vật như bột đậu nành và lúa mì, giá cũng tăng do chiến tranh Nga-Ukraine và hạn hán kéo dài trên toàn thế giới. Để sản lượng tôm thế giới dự kiến đạt 5,5 triệu tấn thì cần gần 9 triệu tấn thức ăn (với tỷ lệ FCR trung bình 1,6). Thức ăn chiếm từ 40%–65% chi phí sản xuất tôm.
Dịch bệnh phát triển ảnh hưởng lớn tới tôm nuôi. Nghiên cứu của Shinn et al. đưa ra con số thiệt hại là 4 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2009–2018, chủ yếu do virus hội chứng đốm trắng (WSSV) và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Nghiên cứu của Asche và cộng sự năm 2021 cũng cho hay, sự xuất hiện của dịch bệnh làm tăng thua lỗ, tăng rủi ro. Thiếu hệ thống miễn dịch ở tôm đã ngăn cản sự phát triển của ngành công nghiệp tôm và phụ thuộc vào nguồn tôm P. monodon tự nhiên đã tạo ra một vòng luẩn quẩn nhiễm bệnh-điều trị bằng kháng sinh-tái nhiễm.
Chất lượng tôm bố mẹ với kết quả chọn giống tôm tăng trưởng nhanh dựa trên các dòng SPF ở TCT đã thành công trong việc cải thiện tỷ lệ sống, giảm FCR và rút ngắn chu kỳ nuôi thương phẩm. Thời gian nuôi tôm về cỡ 5 g có thể giảm 44% (từ 128 xuống 74 ngày), tỷ lệ sống trên 85%, giảm 20% FCR (từ 1,6 xuống 1,3) và năng suất đạt 44 tấn/ha/năm qua sáu thế hệ đối với TCT ở Thái Lan.
Dịch bệnh cũng làm đã chiến lược lựa chọn thay đổi, nông dân ở Ecuador quyết định sử dụng những cá thể còn sống sót từ các ao sản xuất bị nhiễm vi rút đốm trắng (WSSV) làm hậu bị với kỳ vọng phát triển các chủng có khả năng chống chịu mầm bệnh cụ thể (SPT), giúp hạn chế ảnh hưởng của bệnh nếu nó xảy ra. Thách thức ở giai đoạn này là các trại giống có thể trở thành nguồn bệnh và khả năng chống chịu dịch bệnh sẽ không được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác do khả năng di truyền kém.
Những quan tâm để tăng hiệu quả sản xuất
Các quy trình sản xuất thức ăn mới như ép đùn đã cải thiện FCR và giảm chất hữu cơ dư thừa trong ao ở Ecuador. Việc cho ăn và sục khí tự động giúp sử dụng thức ăn tốt hơn nhưng chi phí lắp đặt thiết bị khá đắt. Hiện tại, khoảng 17% diện tích trang trại ở Ecuador sử dụng máy cho ăn tự động và sục khí. Hạn chế về bột cá và dầu cá đã mở ra các nguồn protein mới như bột côn trùng (ấu trùng ruồi hàn đen), protein đơn bào (nấm men, vi khuẩn, nấm và tảo) và rau quả ( Pea, Faba), tuy nhiên, số lượng và giá thành là thách thức lớn.
Về công nghệ nuôi tôm. Phát triển các hệ thống nuôi tôm BTC sang TC ở một số khu vực và việc kết hợp các hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS) hiệu quả về mặt kinh tế, cần thiết sử dụng hỗ trợ sinh học phân tử để chọn lọc những dòng/giống tôm có sức tăng trưởng cao, thích nghi hơn với việc sử dụng protein mới. Khi nuôi TC, việc sản xuất liên tục trở nên khả thi ở nhiều khu vực thì công tác phòng ngừa và chẩn đoán bệnh tốt hơn là điều cần thiết. Hiện tại, bằng chứng về chọn lọc những dòng kháng bệnh đốm trắng (WSSV) cho thấy nhiều hứa hẹn, với một số dòng di truyền thương mại cung cấp để chọn lọc các giống tôm có cả 2 tính trạng là tăng trưởng nhanh và kháng bệnh, là việc không thể cách đây 10 năm.
Các dòng tôm tăng trưởng nhanh là lựa chọn tốt nhất trong hệ thống nuôi được quản lý tốt chỉ ra rằng có thể sản xuất TCT đạt trọng lượng 34 g/con trong 82 ngày mà không làm giảm tỷ lệ sống bằng cách sử dụng hệ thống tuần hoàn RAS. Tuy nhiên, hiệu suất ao nuôi là sự tương tác giữa tính di truyền, chất lượng thức ăn và môi trường. Tôm tăng trưởng nhanh hơn dẫn đến sinh khối lớn hơn, đòi hỏi phải tăng lượng oxy sẵn có trong ao để điều chỉnh khả năng vận chuyển khi nhu cầu trao đổi chất của tôm tăng lên.
Tóm lại, khi hướng tới các hệ thống sản xuất bền vững và hiệu quả hơn cần có sự hiểu biết tốt hơn về sinh học tôm và động lực tương tác với môi trường.