Cá chuối hoa
Phân loại
Đặc điểm sinh học
Thân dài, tròn, về phía đuôi dẹp bên. Đầu dài nhọn. Vảy hình tấm ở đỉnh đầu tương đối bé. Mắt lớn ở hai bên đầu. Khe mang lớn. Que mang ở cung mang I là 6 - 11, phát triển không đều, dạng to, ngắn, có nhiều chồi gai nhỏ và thường có 3 - 5 cái tương đối lớn. Rạch miện xiên kéo dài về phía sau quá viền sau của mắt. Toàn thân phủ vảy lớn. Đường bên gián đoạn. Đoạn trước chạy từ sau nắp mang tới khỏi tia thứ 5- 6 của vây hậu môn. Đoạn sau thấp hơn 1 hàng vảy và tiếp tục đi vào giữa cuống đuôi.
Miệng rất lớn. Trên hai hàm, xương lá mía và xương khẩu cái đều có nhiều răng. Lưỡi nhọn dài. Lỗ mũi mỗi bên 2 lỗ. Lỗ trước hình ống, lỗ sau hình nón tù cách tương đối xa ổ mắt. Trên đầu, hai bên má có hệ thống lỗ nhỏ sắp xếp có qui luật. Vây lưng không có tia gai, gốc rất dài, khởi điểm ở trước khởi điểm vây bụng. Vây ngực, vây đuôi tròn, vây bụng bé và ở mặt bụng. Cá có màu xám nâu, xen kẽ với các vạch chấm đen có các vân chấm đen. Dọc thân có hai hàng chấm đen. Gốc vây lưng cũng có một hàng chấm đen lớn. ở đầu có một vạch đen gẫy khúc chạy từ dưới ổ mắt đến gốc vây ngực. Trên các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có nhiều chấm đen nhỏ xếp thành hàng.
Phân bố
Chủ yếu ở ao hồ, đầm, ruộng. Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, Philipin. ở Việt Nam có mặt ở hầu khắp các thuỷ vực ở miền núi, đồng bằng và cả ở vùng nước lợ nơi có nồng độ muối thấp.
Tập tính
1.Tập tính sinh học
Thích sống ở vùng nước đục có nhiều rong cỏ, thường nằm phục ở dưới đáy vùng nước nông có nhiều cỏ. Tính thích nghi với môi trường xung quanh rất mạnh, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên nó có thể hít thở được O2 trong không khí. ở vùng nước hàm lượng O2 thấp cũng vẫn sống được, có khi không cần nước chỉ cần da và mang cá có độ ẩm nhất định vẫn có thể sống được thời gian khá lâu.
2.Tính ăn
Cá quả thuộc loại cá dữ. Thức ăn là chân chèo và râu ngành; thân dài 3 - 8cm ăn côn trùng, cá con và tôm con; thân dài trên 8cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg có thể ăn 100 - g cá. Trong điều kiện nuôi nó cũng ăn thức ăn chế biến. Mùa đông không bắt mồi.
3.Sinh trưởng
Tương đối nhanh. Con lớn nhất đến 5 kg, nhìn chung cá 1 tuổi thân dài 19 - 39cm nặng 95 - 760g; Cá 2 tuổi thân dài 38,5-40cm, nặng 625 - 1.395g; cá 3 tuổi thân dài 45-59cm, nặng 1.467 - 2.031g (con đực và cái chênh lệch lớn); khi nhiệt độ trên 20oC sinh trưởng nhanh, dưới 15oC sinh trưởng chậm.
Sinh sản
1 - 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, mùa vụ sinh sản từ tháng 4 - 8, tập trung vào tháng 4 - 5. Cá thường đẻ vào sáng sớm sau những trận mưa rào một hai ngày nơi yên tỉnh có nhiều
thực vật thủy sinh. Ở nhiệt độ 20 - 350C sau 3 ngày trứng nở thành cá bột, khoảng 3 ngày sau cá tiêu hết noãn hoàng và bất đầu ăn được thức ăn tự nhiên bên ngoài.
Sau khi nở, luân trùng Brachionus plicatilis được xem là thức ăn đầu tiên tốt nhất của cá bột. Ngoài ra chó thể cho ăn nấm men, lòng đỏ trứng hay thức ăn tổng hợp dạng bột.
Giai đoạn kế tiếp cho ăn trứng nước (Moina), Daphnia hay trùng chỉ, ấu trùng muổi đỏ.
Giai đoạn cá giống, sâu gạo và dòi là thức ăn ưa thích của cá. Một số thí nghiệm trên cá bột cho thấy cá có khả năng sử dụng thức ăn trứng nước kết hợp với đạm đơn bào. Thức ăn Moina vẫn là thức ăn tốt nhất đối với cá bột trong 3 tuần lễ đầu. Rhizopus arrhizus hay đạm đơn bào (125μm) được sản xuất từ kỹ thuật lên men sử dụng dầu cọ làm nguồn carbon chính.
Giai đoạn cá lớn thường cho ăn cá tạp, phụ phế phẩm từ các nhà máy chế biến đầu tép, tôm, ếch, cá hay thức ăn chế biến và thức ăn viên. Cá lớn nhanh vào mùa xuân - hè.
Hiện trạng
Đang nuôi và sản xuất giống rông rãi
Tài liệu tham khảo
- http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D_C%C3%A1_qu%E1%BA%A3