Quan điểm và định hướng phát triển xanh
Các chủ trương lớn của Việt Nam xác định: Chiến lược phát triển xanh kinh tế biển nhằm sử dụng không gian biển đạt được tăng trưởng kinh tế và giảm tác động tiêu cực đến môi trường. Sử dụng tài nguyên có trách nhiệm, hướng tới bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái, đa dạng sinh học.
Cải thiện chất lượng môi trường hướng tới nâng cao sức khỏe con người, hạnh phúc và công bằng xã hội thông qua các chính sách và hành động về môi trường. Hiện thực hóa các cơ hội kinh tế gắn liền với tạo ra môi trường thuận lợi cho đổi mới xanh, đầu tư, thương mại và khả năng cạnh tranh. Chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái biển, hải đảo và nhu cầu sử dụng của các ngành, lĩnh vực và địa phương
Duy trì chức năng, cấu trúc, khả năng chống chịu, sức chịu tải của các hệ sinh thái và các khu vực biển; bảo đảm khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu của các hệ sinh thái, môi trường biển cho đời sống nhân dân. Các ngành kinh tế biển giữ gìn giá trị, phát huy bản sắc văn hóa biển đi đôi với xây dựng xã hội gắn kết, thân thiện với biển
Phát triển kinh tế - xã hội các vùng đất ven biển, các đảo, các quần đảo, vùng biển dựa vào phương thức quản lý tổng hợp, liên vùng, liên ngành. Huy động mọi nguồn lực để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm phát triển bền vững kinh tế biển.
Phát triển kinh tế thủy sản biển
Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản. Ưu tiên phát triển các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá tại các tuyến đảo, vùng biển xa. Xây dựng trạm cung cấp dịch vụ hậu cần, sơ chế, bảo quản, trung chuyển sản phẩm.
Chú trọng các Đề án và Chương trình trọng điểm: Triển khai có hiệu quả Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021), hướng tới phát triển xanh, tuần hoàn, carbon thấp, chống chịu cao, gắn với bảo tồn biển. Đẩy nhanh và hoàn thành Đề án Phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định đến năm 2025 (theo Quyết định số 1077/QĐ-TTg ngày 14/9/2022).
Thực hiện Chương trình quốc gia phát triển khai thác thủy sản hiệu quả, bền vững giai đoạn 2022-2025, định hướng 2030 (theo Quyết định số 1090/QĐ-TTg ngày 19/9/2022).
Phát triển du lịch biển
Du lịch và dịch vụ biển là một trong 6 ngành kinh tế biển được ưu tiên phát triển trong Quy hoạch không gian biển quốc gia. Phát triển du lịch biển gắn liền với việc xây dựng và phát triển hệ thống đô thị và nông thôn ven biển, đặc biệt là các đô thị có chức năng du lịch kết hợp với phát triển cảng biển quốc tế.
Xây dựng và phát triển hệ thống các sản phẩm du lịch biển, đảo quốc gia theo hướng xanh, bền vững, có trách nhiệm. Gắn liền với việc phát triển các trung tâm nghỉ dưỡng biển.
Nâng cao đời sống văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa biển.
Phát triển vận tải biển và hệ thống cảng biển
Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đặc biệt là cảng biển và giao thông kết nối cảng biển với nội địa, thông tin liên lạc biển và hạ tầng kinh tế số. Phát triển bền vững kinh tế hàng hải và vận tải biển. Xây dựng cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu biển, phát triển dịch vụ hàng hải.
Nâng cấp và kết nối đa phương thức: Đầu tư nâng cấp đồng bộ các tuyến sông chính để vận tải hàng hóa (bao gồm container, hàng chuyên dụng, khối lượng lớn) trên đường thủy nội địa và tuyến hành lang vận tải thủy ven biển, kết nối đến các cảng biển quốc gia và cửa ngõ quốc tế. Đầu tư các tuyến đường sắt kết nối trực tiếp với các cảng biển lớn và các cảng hàng không quốc tế quan trọng.
Xem xét kết nối bằng đường sắt chuyên dùng từ các cảng biển, cảng thủy nội địa, cảng cạn và trung tâm dịch vụ logistics trên các tuyến hành lang vận tải chính với mạng lưới giao thông quốc gia.
Quy hoạch cảng biển sẽ ưu tiên phát triển cảng cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển quốc tế tại Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu. Ảnh: Báo chính phủ
Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và tài nguyên khoáng sản biển khác
Dầu mỏ Việt Nam chất lượng tốt, là nguồn thu hàng đầu cho ngân sách quốc gia. Trữ lượng dầu thô khoảng 4,4 tỷ thùng (0,3% trữ lượng thế giới), xếp thứ 2 Đông Á, thứ 3 Châu Á, thứ 28 thế giới. Xếp thứ 36 thế giới về quy mô khai thác dầu thô, thứ 4 Đông Nam Á về xuất khẩu dầu mỏ.
Chủ trương của nước ta: Đẩy mạnh đầu tư và ưu tiên nguồn lực tập trung vào việc hình thành một ngành công nghiệp dầu khí toàn diện. Tăng cường hoạt động thăm dò để gia tăng trữ lượng dầu khí. Phát triển quy trình khai thác và chế biến dầu khí một cách đồng bộ và chuyên sâu, tối ưu hóa hiệu quả. Sử dụng công nghệ và thiết bị hiện đại, phù hợp với xu thế của thế giới đối với dầu khí, các dạng hydrocarbon phi truyền thống, các khoáng sản biển có giá trị chiến lược.
Khai thác tối đa công suất và hiệu quả của các nhà máy chế biến khoáng sản hiện tại, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, đồng thời đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khoáng sản ven biển (ngoài dầu khí): Khoảng 35 loại hình khoáng sản đã phát hiện, thuộc các nhóm nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý/bán quý. Sa khoáng có 2 mỏ lớn, 7 mỏ trung bình, 6 mỏ nhỏ với chủ yếu là Titan, Zircon. Vật liệu xây dựng có 50 vùng triển vọng (cát xây dựng, san lấp) với tổng tài nguyên dự báo 196,5 tỷ m3 (ngoài khơi Côn Đảo, Bạch Long Vỹ, Bình Thuận, Thừa Thiên Huế). Cát thủy tinh có 20 mỏ đã tìm kiếm, thăm dò với tổng trữ lượng 584 triệu tấn, tập trung từ Cam Ranh đến Bình Châu. Khoáng sản có trữ lượng lớn như mỏ Hàm Tân (Ti, Zn), mỏ sắt Thạch Khê (ở Hà Tĩnh, 532 triệu tấn). Linmonit và Glauconit tồn tại rộng khắp, tiềm năng chưa được đánh giá sâu.
Khoáng sản dưới đáy biển có thể kể đến: Kết hạch sắt - mangan Biển Đông, sa khoáng ilmenit - zircon - monazite, phi kim loại (vật liệu xây dựng, nguyên liệu thủy tinh); khí hydrate (vùng biển sâu) ở nhiều nơi.
Ngành dầu khí cần giải pháp duy trì sản lượng và tăng khả năng tự chủ năng lượng. Ảnh: Sưu tầm
Năng lượng sóng, gió biển
Việt Nam nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định, một trong những quốc gia có tiềm năng gió lớn nhất Đông Nam Á. Tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW, gấp 200 lần công suất thủy điện Sơn La và hơn 6 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2025. Năng lượng gió là chìa khóa giảm phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch, thúc đẩy kinh tế không carbon, và đạt Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc.
Năng lượng sóng phong phú: Biển Đông nằm trên khu vực có hai chế độ gió mùa luân phiên, mang lại nguồn tài nguyên năng lượng sóng phong phú cho Việt Nam so với các nước trong khu vực.