Cụ Lạng, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Trịnh Tường đã nghỉ hưu được 10 năm nay kể lại: Giờ ở hồ vẫn còn nhiều cá to lắm, nhưng không kéo lưới được, bởi lòng hồ sâu và cá trú ẩn ở hang nên rất khó bắt. Dạo trước bắt được cá to ở hồ này là chuyện thường, nhưng giờ thì chỉ có “bắt” cá to do người dân nuôi thôi…
Cách đây đúng nửa thế kỷ, người dân Nam Định, Hà Nam… lên xây dựng vùng kinh tế, định cư ở mảnh đất này, cùng chung sống với đồng bào các dân tộc Mông, Dao, Hà Nhì. Giờ đây bản Tân Quang trước kia phát triển, mở rộng dọc theo dải đất ven sông Hồng, đã thành 3 bản là Tân Thành, Tân Quang và Tân Tiến. Những ngày đầu, đến được từng hộ dân trong bản, cán bộ xã cùng với chiến sỹ biên phòng phải vạch cỏ tranh cao lút đầu người mà đi. Giờ thì đường bê tông “nông thôn mới” đã đến từng ngõ. Bí thư Đảng ủy xã Trịnh Tường Vừ A Dùa thông báo: Cả xã có gần 30 ha diện tích mặt nước nuôi thủy sản thì chủ yếu tập trung ở 3 bản ven biên này và 2 bản Phìn Ngan, Bản Mạc. Mấy năm gần đây, phong trào nuôi thủy sản phát triển đã và đang mang lại nguồn thu nhập khá cho đồng bào nơi đây.
Đến thăm mô hình nuôi thủy sản nhà ông Bùi Hải Âu ở thôn Tân Thành, năm nay 65 tuổi, người có mặt tại bản vùng cao này từ những năm 1964, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng trước cơ ngơi “đồ sộ” của nhà nông. 2 chiếc ao cá đã cho gia đình ông một nguồn thu không nhỏ. Ông Bùi Hải Âu phấn khởi khoe, năm nay, đến thời điểm này ông đã bán được hơn 7 tạ cá thương phẩm các loại (trắm, chép, mè, nheo…). Hiện trong ao vẫn còn nhiều cá chưa xuất bán, ông và gia đình đang chăm sóc cho cá đạt cỡ lớn để xuất bán với giá cao hơn… Ngoài các giống cá trắm, chép, mè mua ở Trại giống của tỉnh cung ứng, ông Âu còn nuôi thêm các giống cá đặc sản như trắm đen, cá nheo sông Hồng. Ông bảo: Năm nay, thả 150 con nheo giống, lúc thu hoạch, con bé cũng đạt cỡ 2kg, con to đạt 4kg, với giá bán 120.000 đồng/kg cũng mang lại một nguồn thu đáng kể. Đợt vừa rồi, gia đình thuê xe chở cá ra tận chợ Gốc Mít để bán cho được giá... Để phục vụ nuôi thủy sản, ông Âu thực hiện chu trình khép kín theo mô hình “vườn, ao, chuồng, rừng”. Ngoài 14 ha rừng trồng cao su, ông dành 10 ha để trồng ngô, sắn và cấy lúa… Mỗi năm thu 150 tấn sắn củ tươi, 10 tấn ngô hạt, 10 tấn thóc. Bên cạnh xuất bán sản phẩm nông sản ra thị trường, sản lượng sắn, ngô, lúa cũng giúp gia đình ông trong việc bổ sung đủ thức ăn tại chỗ cho chăn nuôi thủy sản. Ông còn nuôi 50 con lợn thịt để lấy phân cho cá. Vừa có thức ăn cho cá, ông lại không phải lo khâu xử lý môi trường. Để có nguồn thức ăn nuôi được đàn lợn này, ông làm thêm nghề nấu rượu để lấy bỗng nuôi lợn.
Cũng thực hiện mô hình nuôi ghép cá và kết hợp nuôi bằng thức ăn chế biến sẵn với thức ăn từ sản phẩm nông nghiệp, ông Vũ Văn Dưỡng (bản Tân Quang) trở thành người nuôi nhiều cá ở vùng này. Với 4 ao cá, cho đến thời điểm này, ông Dưỡng đã xuất bán được trên 2,5 tấn cá các loại. Rút kinh nghiệm những năm trước đây, chỉ nuôi một loại cá, khi xuất bán với số lượng lớn sẽ khó tìm thị trường tiêu thụ, nhiều khi bị tư thương ép giá. Năm 2013 này, sau khi tham gia mô hình nuôi cá ghép trong ao do Trung tâm Thủy sản tỉnh Lào Cai triển khai, ông Dưỡng khẳng định việc nuôi nhiều loại cá là hướng đi đúng, phù hợp với phương thức chăn nuôi của bà con. Cái lợi thứ nhất là tận dụng được hết thức ăn trong ao ở nhiều tầng nước khác nhau. Thêm nữa là khi thu hoạch để bán, đa dạng sản phẩm cũng rất dễ tiêu thụ… bởi người tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn.
Vừa bê rổ sắn ra bờ ao, ông Dưỡng vừa thao tác chiếc máy thái sắn lát “bắn” sắn củ tươi xuống ao cho cá ăn, ông Dưỡng bảo: Sắn nhà trồng để nuôi cá đấy. Có máy này tiện lắm, chỉ việc thả vào, sẽ “phun” ra miếng sắn vừa miệng cá. Năm nay, ngoài nuôi các loại cá trắm, chép, mè, ông Dưỡng còn đầu tư nuôi cá có giá trị kinh tế cao là cá nheo, cá quả, trắm cỏ… Giá bán tại bờ ao 2 loại cá nheo, cá quả cũng được trên 100.000 đồng/kg. Để có đủ thức ăn cho cá, ông trồng mỗi năm được trên 20 tấn sắn, rồi nuôi lợn tận dụng phân nuôi cá. Biết kết hợp từng giai đoạn sinh trưởng của cá trong việc nuôi thức ăn chế biến sẵn và cho ăn sắn củ, không chỉ hạ giá thành sản phẩm, mà cá còn lớn nhanh. Trong ao hiện có những con trắm cỏ nặng trên 6 kg, trung bình khoảng 4 kg/con; rô phi đạt trên 2 kg/con…
Không chỉ mang lại nguồn thu nhập khá, chuyện nuôi cá ở vùng biên này còn đơn giản chỉ là cải thiện bữa ăn trong gia đình. Với anh Lý Láo Lở, người Dao đỏ ở bản Tân Tiến thì: “Nhà có 2 cái ao, năm nay mình cũng nuôi được trên 2 tạ cá trắm, chép, rô. Mấy năm trước, do lũ nên mất sạch”. Năm nay, không chỉ nuôi cá theo cách truyền thống nữa, anh Lở được kỹ sư thủy sản ở tỉnh về cho cái “kiến thức”, dạy cách xử lý ao nuôi, thả cá đúng thời vụ, chăm sóc cá lớn nhanh, không để dịch bệnh, nên ngoài đủ phục vụ nhu cầu cải thiện trong gia đình, anh Lở còn xuất bán được trên 2 tạ cá ra thị trường.
Cùng bản với anh Lở, chị Phàn Lở Mẩy cũng nuôi được 2 ao cá. Trên diện tích chuyển đổi ruộng canh tác kém hiệu quả, chị thấy việc nuôi cá hiệu quả hơn nhiều. Tuy nhiên, những nông dân vùng cao như chị Mẩy, còn thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật nên việc nuôi cá vẫn còn mang tính quảng canh, chỉ cho ăn cỏ, lá chuối, và sắn tươi… Đợt kéo lưới xuất bán vừa rồi, gia đình chị cũng thu được trên 3 tạ cá thịt. Nếu có biện pháp thâm canh, tin rằng, sản lượng cá nhà chị không chỉ dừng lại ở đó, mà còn là nghề làm giàu chính đáng cho gia đình chị Mẩy.
Câu chuyện về những người nuôi cá ở bản ven biên xã Trịnh Tường cứ cuốn hút chúng tôi bởi nếp nghĩ, cách làm của người vùng cao giờ đã thay đổi, không chỉ dừng lại ở việc “thả” cá mà đã biết thâm canh, nuôi cá để làm giàu. Ngẫm lại lời cụ Lạng mới thấy, chuyện cá to ở hồ Tân Quang chỉ còn trong ký ức, mà chuyện những con cá to trong ao của người dân ở Trịnh Tường mới đáng để “khoe”...