Kỹ thuật nuôi cá bống tượng
Liên Minh hợp tác xã thừa thiên huế
Một vài đặc điểm sinh học của cá bống tượng
Trong tự nhiên, cá phân bố khắp các loại thủy vực như sông rạch, mương ao, ruộng ... Cá sống thích hợp ở môi trường nước không bị nhiễm phèn, pH=7, song chúng có thể chịu đựng pH=5. Nhiệt độ thích hợp nhất cho cá phát triển từ 26-320C, cá cũng có thể chịu đựng nhiệt độ nước 15-410C. Cá sống ở nước ngọt, song có thể chịu đựng đến độ muối 15‰. Cá cần có dưỡng khí trên 3mg/l, song cá có thể chịu đựng ở môi trường dưỡng khí thấp vì có cơ quan hô hấp phụ.
Cá bống tượng có tập tính sống tầng đáy, ban ngày ít hoạt động và thường vùi mình dưới bùn, ban đêm hoạt động bắt mồi tích cực. Cá ưa ẩn náu nơi cây cỏ ven bờ, hang hốc, khi gặp nguy hiểm cá có thể vùi mình vào sâu trong bùn. Khi lượng khí oxy hoà tan trong ao thấp, cá có hiện tượng phùng mang, nổi đầu trên mặt nước.
Cá bống tượng là loài cá dữ điển hình, thích ăn động vật như cá, tép, cua, ốc ... tươi sống và vừa với cỡ miệng. Nuôi trong ao, trong bè, cá ăn thêm các loài thức ăn khác như các loại hạt và thức ăn chế biến. Là loài cá dữ ăn thịt nhưng không rượt đuổi con mồi, mà chỉ nằm rình rập săn bắt. Cá bống tượng ăn mạnh về đêm hơn ngày, nước lớn ăn mạnh hơn nước ròng. Cung cấp thức ăn phù hợp là cá tươi sống, bên cạnh với môi trường nước tốt thì cá có hệ số chuyển đổi thức ăn khoảng 5-6kg cá mồi cho 1kg cá thương phẩm. Đồng thời, thức ăn đủ dinh dưỡng, đủ số lượng sẽ giúp cá tăng trưởng nhanh và tăng khả năng đề kháng với bệnh tật.
Cá bống tượng sinh sản lần đầu sau 1 năm tuổi, cỡ cá khoảng 150gr. Nuôi vỗ cho đẻ nhân tạo cá có thể thành thục sớm hơn, nếu nuôi tốt cá đẻ quanh năm. Cá có tập tính bắt cặp khi sinh sản. Bãi đẻ của cá nằm ở ven bờ và sâu trong nước nơi có cây cỏ thủy sinh hay các gốc thân cây chìm trong nước. Trứng cá có dạng hình quả lê, thuộc loại trứng dính.
So với nhiều loài cá khác, cá bống tượng có độ tăng trọng chậm. Nếu sử dụng con giống sinh sản nhân tạo, nuôi từ cá giống có chiều dài 3-4cm thành cá thương phẩm 400gr/con trở lên cần khoảng thời gian 10-12 tháng tùy chế độ chăm sóc. Cá bống tượng lúc nhỏ tăng trọng rất chậm và lớn nhỏ không đều cỡ, có lẽ do kén chọn nguồn thức ăn, nhưng đến cỡ cá có chiều dài 10-12cm thì bắt đầu phàm ăn và nhanh lớn. Do vậy, người ta thường chia ra làm 2 giai đoạn nuôi, giai đoạn I, nuôi từ cá giống đến cá đạt trọng lượng bình quân 50gr/con, khoảng 3-4 tháng. Tiến hành thu hoạch để phân cỡ cá. Giai đoạn II, từ cá giống lỡ đến cá thương phẩm, thời gian khoảng 6-8 tháng. Đến thời gian nầy cá đã đạt loại I chiếm khoảng 40% tổng đàn.
Nuôi cá bống tượng thương phẩm trong ao đất
Thiết kế ao nuôi: Mục đích là nuôi cá bống tượng trong điều kiện tạo nguồn thức ăn phù hợp và môi trường sạch, giàu dưỡng khí, nên cần thiết phải tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong ao để nuôi cá mồi làm thức ăn. Nếu là ao cũ, tát cạn nước, phơi cho khô se mặt, vét hết lớp bùn đáy đắp vào giữa ao tạo thành cù lao, sao cho diện tích cù lao chiếm khoảng 5-10% diện tích ao. Nếu là ao mới đào thì chừa cù lao với độ cao khoảng 1 mét. Bón vôi để sát trùng và tạo thức ăn tự nhiên, liều lượng 10-15 kg/100m2 ao, có thể bón phân chuồng 30kg/100m2 lên phần cù lao. Dùng lưới bao quanh phần cù lao để khi đưa nước vào thì thả cá rô phi, cá mè vào đó. Cấp nước sạch vào ao đạt độ sâu khoảng 1,5 mét, như vậy phần cù lao được ngập sâu khoảng 0.5-0.7 mét.
Thả giống và chăm sóc: Với biện pháp nuôi cá mồi bổ sung thêm thức ăn tươi sống cho cá bống tượng, nên môi trường nước ít bị dơ, có thể thả cá với mật độ 5-8con/m2 nếu là cá giống lỡ, và thả với mật độ 10-12 con/m2 nếu là cá giống nhỏ. Cá giống kích cỡ từ 3-4 cm, thời gian đầu thức ăn sử dụng cho cá là trùng chỉ, cá, ốc xay. Thức ăn bỏ vào sàn ăn, nếu ao diện tích 1.000 m2 cần 6-8 sàn ăn. Lượng thức ăn được ăn hàng ngày từ 10-12% trọng lượng cá, lúc cá còn nhỏ, đến cá lớn liều lượng giảm dần. Kiểm tra lượng ăn mồi để tăng giảm, bằng cách kéo sàn ăn lên sau khoảng 1 giờ cho ăn.
Khi cá rô phi đã sinh sản ra cá con và cá mè có thể thu hoạch, thì kéo lưới cho cá ra ngoài. Phần diện tích nuôi cá bống tượng cần đặt nhiều ống tre, ống nước (độ dài khoảng 3-4 tấc) để cá có chỗ chui rúc tránh nhiệt độ cao, tránh tiếng ồn và hạn chế sự gặp gỡ giữa các cá với nhau. Cách làm nầy có ý nghĩa trong việc phòng bệnh lây nhiễm cũng như phòng stress cho cá.
Thu hoạch: Sau thời gian nuôi khoảng 4 tháng thì thu hoạch để tuyển lựa cá cho đồng cỡ. Nuôi thêm chừng 8 tháng nữa là có thể thu hoạch toàn bộ. Nếu lượng cá mồi cung cấp được 50% tổng số thức ăn, thì chi phí nuôi cá sẽ được giảm một nửa. Ước tính chi phí nuôi thành 1kg cá bống tượng có trọng lượng khoảng 3con/kg như sau: 3kg cá tươi khoảng 30.000 đồng, 3kg cá mồi tự nuôi khoảng 15.000 đồng, khoảng 4 con cá giống giá 4.000 đồng, chi phí nhiên liệu, thuốc phòng trị bệnh và chi phí khác khoảng 1.000 đồng/kg, tổng cộng chi phí khoảng 50.000 đồng/kg cá thương phẩm. Giá bán, tính theo giá cá loại II, khoảng 200.000 đồng/kg, như vậy lời được 150.000 đồng/kg. Nếu ao 1.000m2, thả khoảng 6.000 con, hao hụt 30%, còn 4.000 con, bình quân 3 con/kg, tức khoảng 1.300 kg, giá 200.000 đồng/kg, được 260 triệu đồng. Trừ chi phí 50.000 đ/kg x 1.300 kg = 65 triệu đồng, lời được gần 200 triệu đồng.