Kỹ thuật sản xuất giống cá bống tượng

D.PHONG (Tổng hợp nhiều nguồn)
Cập nhật 08/03/2012

Hiện nay, nơi sản xuấtchỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên  sản phẩm tạo ra không có sự cạnh tranh. Song song với sự độc nhất vô nhị của sản phẩm Bống Tượng. Kế đến là kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Bống Tượng nếu ứng dụng quy trình đơn thuần, thì tỷ lệ sống rất thấp < 5%. Nếu ta biết cách ương cá bột biết cách sử dụng đưa thức ăn tự nhiên cho cá bột, đồng thời tạo sinh khối tảo, biết gây nuôi ấu trùng ROTIFER thì mới có tỷ lệ sống cao. So với nhu cầu hiện nay, con giống nhân tạo còn rất ít chỉ đáp ứng chưa được 2% thị trường.

I. THỜI VỤ VÀ CHUẨN BỊ AO ƯƠNG

Thời gian nuôi vỗ cá cha mẹ từ tháng 12-1 dl.
- Cá bố mẹ phải khỏe mạnh, không dị hình, không nhiễm bệnh, độ tuổi từ 1 tuổi trở lên, trọng lượng trên 200g. Cá không thương tật, mất nhớt, cá không bị mắc câu, mắc lưới, chích điện. Trước khi thả cá nuôi vỗ phải tắm cá bằng nước muối 2-3% trong 3-5 phút.
- Ao nuôi vỗ 500-1000m vuông, ao có hình chữ nhật, dài gấp 3-4 lần chiều rộng, mức nước sâu 1,0-1,2m. Cải tạo ao triệt để như cải tạo ao khác, cần lưu ý xâm các hang để cá đẻ vào hang, trang bằng đáy ao. Bón vôi bột 7-10kg/100m vuông ao, phơi đáy ao 3-5 ngày, lọc nước từ từ vào.
o Nhiệt độ nước 28-31 độ C.
o pH = 6,5 -8
o Độ mặn ko vượt quá 1‰.
o Oxy hòa tan 3-4mg/l
o Nước cấp sạch và chủ động cấp thoát.

1. Chăm sóc cá bố mẹ:

- Mật độ cá cha mẹ ở ao từ 0,2-0,3kg/m vuông ao. Nếu nuôi riêng cá đực 0,5kg/m vuông, cá cái 0,2kg/m vuông ao. Nếu nuôi vỗ đực cái chung tỷ lệ 1/1.
- Cho cá ăn bằng cá tươi sống khẩu phần ăn 3-5% trọng lượng thân/ngày. Cá tươi chưa bị ươn thối, ốc, tép, lòng gà, ... cắt vừa miếng ăn của cá, cho thức ăn vào sàn đặt cố định trong ao, cần xem thừa thiếu để điều chỉnh cho thích hợp. Cứ 50 m vuông/ một sàn ăn. Cho ăn 2 lần sáng, chiều. Có cá tươi sống (cá hường, trôi, cá 7 màu, ...) thả chung với cá cha mẹ, thả 10% so với trọng lượng cá cha mẹ, sau 5 ngày kiểm tra tăng giảm thức ăn.
- Hàng ngày cần kiểm tra không để thức ăn dư làm dơ nước, bệnh cá, ... Ao được trao đổi nước hàng ngày càng tốt, hoặc theo định kỳ nước thủy triều mỗi tuần một lần, lượng nước thay đổi 20-30%.

2. Kiểm tra độ thành thục của cá:

Cá đực có gai sinh dục nhỏ, đầu nhọn hình tam giác. Khi cá thành thục, vuốt nhẹ trên cơ thể sẽ ra một ít sẹ màu trắng.
Cá cái có gai sinh dục lớn, nhưng không nhọn đầu như gai sinh dục của cá đực. Gần thời gian đẻ, mấu sinh dục lồi ra, đỏ mọng. Ðầu mút của mấu này có thể chạm đến gốc vây hậu môn. Bụng to mềm. Khi vuốt nhẹ trên thân, thấy có một số hạt trứng bật ra đó là lúc cá có thể cho đẻ. Có thể dùng ống thăm trứng để lấy trứng quan sát. Trứng cần phải đều, hơi rời, kích thước từ 0,5 - 0,6mm. Khi quan sát trên kính lúp thấy trứng đã phân Cực. Hạt trứng căng, nhân trứng lệch về sát màng trứng, hơi nhọn ở một đầu. Khi đẻ ra, đầu này sẽ là đầu bám vào giá .

II. CHO CÁ ĐẺ

1. Cho đẻ và ương ở ao:

-  Ao được cải tạo, diệt tạp tốt, cho cá cha mẹ vào nuôi vỗ, mật độ nuôi có thể 5-10kg CBT/100m vuông ao.
-  Chuẩn bị giá thể cho trứng dính
Trứng cá bống tượng khi đẻ ra dính trên các giá thể như viên ngói, ống cống. Vì vậy, ta cần phải chuẩn bị vật bám cho cá để việc thu trứng có kết quả tốt. Vật bám, hay tổ đẻ thường được dùng là viên gạch tàu, ống cống sành, ngói nóc nhà, ống bọng cây, mê bồ…đặt ở bờ ao nghiên 450 cách đáy ao 20cm. Mỗi cặp cá bố mẹ sẽ chiếm một tổ. Vì vậy, số lượng tổ đẻ phải tương đương với số lượng cặp cá bố mẹ có trong ao.
Vị trí để đặt tổ phải cố định để dễ kiểm tra, theo dõi. Sau khi đặt tổ, mỗi ngày kiểm tra các vị trí đặt từ 2 đến 3 lần để thu trứng kịp thời đem ấp.
-  Đến nước rong, cho nước chảy vào ao nuôi mạnh, cá kích thích tự sinh đẻ và trứng nở tự phát triển ở ao.
-  Trong thời gian này: Gây màu nước tạo thức ăn cho cá, cho cá con ăn thức ăn nhân tạo như ương cá con. Cá lớn vẫn tiếp tục cho ăn thức ăn cỡ lớn vừa, cá phát dục đẻ tiếp trong ao.
-  Khi thị trường có giá, nhử bắt cá lớn bán, cá con tiếp tục nuôi dưỡng, cuối năm có cá giống 50-200g/con.

2. Cho đẻ ở ao:

Cho cá đẻ tự nhiên trong ao: Hàng tháng cho cá đẻ tập trung vào con nước rong. Đặt tổ (giá thể) bằng gạch tàu xung quanh bờ gần đáy ao. Tổ này cách tổ kia 2-3m, số tổ bằng 1/3 lượng cá cái, giá thể đặt nghiêng góc 45 độ và cách đáy ao 20-30cm. Hàng ngày kiểm tra giá thể 1-2 lần để vớt trứng tránh cá tạp khác ăn trứng.

-  Ðể cho cá đẻ đồng loạt, thu được nhiều trứng một lúc, ta có thể dùng phương pháp tiêm kích dục tố rồi cho cá ghép cặp đẻ tự nhiên trong ao.

Kích dục tố dùng cho cá bống tượng là não thùy LRH-A (Luteotropin Releasing Hormon) hoặc HCG (Hormon Chorigonic Gonadotropin). Kích dục tố có tác dụng làm chuyển hóa buồng trứng và làm cho cá cái rụng trứng.

Liều lượng sử dụng cho 1kg cá cái là 1-2mg đối với não thùy, và 250-300UI đối với HCG, liều lượng dùng cho cá đực 1/3-1/2 cá cái.
Ðối với cá đực, nếu vuốt thấy có tinh dịch thì không cần phải dùng kích dục tố. Nếu tinh dịch có ít hoặc không có thì tiêm 10 microgram LRH hoặc 500 UI HCG cho 1 kg cá đực.


Sau khi tiêm kích dục tố, ta thả cá vào ao đã đặt sẵn ổ đẻ. Thông thường, chỉ sau từ 10 - 12 giờ là cá đẻ. Vì vậy, cần phải theo dõi để thu trứng kịp thời và cho ấp. Với phương pháp tiêm kích dục tố, cá sẽ đẻ đồng loạt hoặc cách nhau trong khoảng 2 - 3 giờ.

Biện pháp dùng kích dục tố để kích thích sinh sản nhân tạo chỉ nên được áp dụng ở những nơi khó khăn trong nuôi vỗ cá bố mẹ hoặc cho đẻ trái vụ.
Cả hai phương pháp này phải lợi dụng nước mới, sạch để kích thích cho cá đẻ. Cần xâm chặt các hang để tránh cá đẻ vào hang.

3. Cho cá đẻ nhân tạo

Giống như phương pháp trên, nhưng đến thời điểm cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng, vuốt tinh cá đực rồi tiến hành thụ tinh nhân tạo, sau đó đem rải trứng lên giá thể và đem ương. Có thể sau khi thụ tinh thì khử trứng dính bằng dung dịch tananh và ấp trứng bằng bình Weis.

III. ẤP TRỨNG

- Dụng cụ ấp, bể nhựa, thuỷ tinh, xi măng, bể vòng, bình Weys, vv...
- Dụng cụ ấp phải được rửa sạch và sát trùng bằng vôi hoặc chlorine, sau đó rửa lại bằng nước sạch.
- Nước dùng để ấp phải trong, sạch, không có mầm bệnh và lọc qua vải mouseline hoặc lưới phiêu sinh.
- Môi trường ấp trứng nhiệt độ thích hợp 28-30 độ C, oxy hòa tan > 5mg/l, pH 7-7,5 và không có sinh vật hại trứng (động vật phù du nhóm cyclops, bọ gạo, ...)
- Mật độ ấp 1.000.000 - 1.500.000 trứng/m khối nước. Qua kinh nghiệm thực tiễn thì ấp trứng theo phương pháp nước tĩnh có sục khí là tốt nhất, vì kích thước cá bột rất nhỏ và rất yếu dễ mẫm cảm với điều kiện môi trường, giữ hàm lượng oxy bằng sục khí nhiệt độ nước bằng Heater.
- Mỗi ngày thay nước 2 lần, mỗi lần 50-80% lượng nước và lấy các giá thể ra khi trứng đã nở trên 90% và rút cá bột sang các bể khác để chăm sóc.
- Thời gian nở của trứng từ 34-82 giờ tùy nhiệt độ và phương pháp ấp. Khi trứng nở chậm, cá con thường yếu, dễ bị chết sau khi nở. Theo kinh nghiệm của một số người sản xuất giống cá bống tượng, cá nở đến đâu vớt đến đấy và cho ra bể ương có sục khí. Số trứng còn lại tiếp tục ấp, thời gian nở hết thường là trong 3 ngày.
- Cá sau khi nở 2-6 ngày được đưa sang bể ương.

IV. ƯƠNG

Cá con mới nở rất yếu, có màu trong suốt. Dưới bụng có một khối noãn hoàng. Cá vận động thẳng đứng lên trên mặt nước, sau đó chúc đầu hạ từ từ xuống đáy. Cá có chiều dài 0,3 - 0,4mm. Sau khi đã nở chừng 5 - 6 ngày, khối noãn hoàng sẽ tiêu hết. Lúc này cá đã có khả năng ăn mồi.

Sang ngày thứ 6, xuất hiện tia vây đuôi và vây ngực. Cá bắt đầu bơi ngang. Chiều dài cá lúc này đạt 0,5 - 0,6mm. Cá đã biết tìm thức ăn. Nếu không cho ăn kịp thời cá sẽ chết hàng loạt rất nhanh. Thức ăn phải mịn, nhỏ vừa với miệng cá.

1. Ương trong ao đất

a. Từ cá bột lên cá hương


 Chuẩn bị ao:
Ao ương có diện tích 200-500m vuông, mức nước sâu 0,8-1,0m. Trước khi ương cá ao được cải tạo triệt để như các ao ương cá khác, cần vét sạch bùn đáy, lấp các hang, dọn sạch cây cỏ, sửa bờ -  Đập, bộng có lưới dầy 2a = 0,5-0,7mm lọc nước. Nếu còn sót cá dữ diệt bằng dây thuốc cá 2kg/100m khối nước.
-  Đáy ao được trang bằng, thấp dần về cống thoát nước. Vôi bột 7-10kg/100m vuông, phơi nắng ao 2-5 ngày.
-  Lấy nước vào ao phải qua lưới lọc kỹ. Nếu ao có bọ gạo diệt bằng dầu lửa trước khi thả cá, sau đó xả lớp nước mặt, thả cá.
-  Mật độ thả: 200-300 con/m vuông. Nên thả cá vừa lúc hết noãn hoàng (3 ngày tuổi). Thả cá vào sáng sớm chiều mát, nhiệt độ nước 28-30 độ C, hàm lượng oxy hòa tan 4-5mg/l, pH = 6,5-7,5.

 Chăm sóc cá ương:
Cá sau khi thả phải cho ăn ngay:
- 10 ngày đầu cho ăn 5 lòng đỏ trứng và 0,5 kg bột đậu nành/100 m vuông ao trong ngày (5 lần/ngày).
- 15 ngày tiếp theo 6-8 trứng và 0,6-0,7 kg bột đậu nành/100 m vuông ao trong ngày. Cho ăn ngày 4 lần.
- Từ ngày 26-40: cho ăn trùn chỉ, cá, tép, ốc xay nhuyễn. Lượng thức ăn trong ngày 0,5-1,5kg/ngày/100 m vuông ao. Cá đạt 2-3cm.
- Cá sau 20 ngày tuổi có thể ăn được phù du động vật lớn như chi giác, luân trùng, chân chèo, có thể gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao bằng bột đậu nành (2,5g bột đậu nành/1m khối nước mỗi ngày).
- Đặt gần sát đáy ao một số ống nhỏ, ống tre, nhựa, sành để cá chui vào trú ẩn. Khi kiểm tra thì bịt 2 đầu bộng đưa lên. Ương tốt thì tỷ lệ sống 38-51%.

b. Cá hương thành cá giống 8-19cm

-  Để có cá 8-10cm cần ương cá thời gian 3,5-4 tháng tiếp. Mật độ ương 75-150 con/ m vuông. Kỹ thuật ương và chuẩn bị ao như phần ương cá bột lên cá hương.
-  Thức ăn là cá, tép, ốc, lòng gà vịt heo, ... băm nhỏ, dùng sàn cho ăn.
-  Ngày cho ăn 2 lần. Thức ăn được đặt vào sàn cố định. Khẩu phần thức ăn: tháng thứ nhất 10%, tháng thứ hai 8%, tháng thứ ba còn 5-6% so với trọng lượng cá. Thường xuyên kiểm tra tốc độ điều chỉnh lượng thức ăn cho thích hợp.
-  Nước trong ao cần được thay thường xuyên, tối thiểu 1 tuần thay 2 lần nước. Khi cá đạt 8-10cm chuyển sang nuôi cá lứa. Tỷ lệ sống 35-44%.

c. Nuôi cá lứa

-  Ao diện tích 200-500m vuông, nước sâu 1-1,2m, ao được chuẩn bị như ao ương cá giống, cần loại bỏ địch hại cá vào ao.
-  Mật độ thả 2-5con/ m vuông.
-  Thức ăn: Cá tươi sống hoặc ốc, cá tép băm nhỏ cho vào sàn ăn, khẩu phần ngày 3-4%.
-  Cá nuôi được 2 tháng cho cá trôi, hường, 7 màu (cỡ cá 1-2cm) vào làm thức ăn trực tiếp. Cứ 7-10 ngày thả thức ăn 1 đợt 10% trọng lượng cá.
-  Cần thay nước ao thường xuyên theo thủy triều, ít nhất 2 lần/ tuần (bơm nước). Sau 5-6 tháng ương cá đạt cỡ 60-70g/ con, chuyển sang nuôi cá thịt. Tỷ lệ sống 61-70%.

2. Ương bằng bể xi măng, bể lót bạt:

a. Từ cá bột lên cá hương (1,5-2cm):

- Bể ương phải rửa sạch và tẩy trùng chlorine, mực nước trong bể 0,6-0,8m, nước vào bể được lắng cặn, lọc kỹ, có lưới che mặt bể nhằm ngăn bọ gạo nhảy vào. Nước được lọc qua lưới phiêu sinh động vật.
- Mật độ ương 1.000-1500 con/m vuông
- Thức ăn:
 + Tuần lễ đầu: Lòng đỏ trứng và bột đậu nành, mỗi loại 50g/10.000 con cả trong ngày. Ngày cho ăn 4-5 lần.
 + Tuần thứ hai: Mỗi loại thức ăn trên 75g/10.000 cá/ngày.
 + Tuần thứ ba: Bột đậu nành, trứng vịt lòng đỏ 10g/ngày/10.000 cá và đồng thời cho ăn trứng nước (moina) hay còn gọi là bo bo 50g/10 m khối nước/ ngày.
 + Tuần thứ tư: trứng nước 100g/10m khối nước/ ngày và cho ăn thêm trùn chỉ 100g/ngày/ 10.000 cá.
Hàng ngày xi phong nước dưới đáy bể, loại chất thải, chất cặn, thay 20% nước mỗi ngày. Sục khí liên tục suốt quá trình ương. Tỷ lệ sống 38-88%.

b. Từ cá hương lên cá giống (8-10cm)

-  Bể có diện tích 15-20m khối, bể được chuẩn bị như ương cá hương. Mức nước sâu 0,6-0,8m.
-  Mật độ ương 75-150 con/m vuông.
-  Thức ăn: cá xay, trùn chỉ
• Tháng đầu 10% trọng lượng thân cá/ ngày, trong đó cá xay 30%, trùn chỉ 70%.
• Tháng thứ hai 8-9% trọng lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 50%, trùn chỉ 50%.
• Tháng thứ ba: 6-7% trong lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 70%, trùn chỉ 30%.
• Tháng thứ tư: 5% trong lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 85 %,trùn chỉ 15%.
-  Hàng ngày xi phong đáy bể để loại bỏ chất cặn, chất thải trong nước. Lượng nước thay 20-30%/ ngày. Sục khí vào ban đêm. Thường xuyên theo dõi và điều chỉnh khẩu phần thức ăn hàng ngày cho phù hợp. Tỷ lệ sống 68-80%.
-  Ương ở ao và ở bể: Thay nước hàng ngày 10-20%, có sục khí, nếu không có sục khí phải giảm mật độ ương xuống còn 50-100 con/ m vuông. Cần có lưới bao để loại các địch hại của cá vào ăn cá. Cần theo dõi hoạt động của cá mà có biện pháp xử lý kịp thời.

Tài liệu tham khảo
Thẻ