Cá rô phi ở những khu vực khác nhau được nuôi bằng chế độ cho ăn khác nhau, phổ biến nhất là phương pháp bón phân gây màu hoặc cho ăn bổ sung. Thức ăn là nguyên liệu đầu vào định hướng chi phí cao nhất trong nuôi trồng thủy sản. Do đó, thức ăn có hiệu quả càng cao thì chi phí sản xuất càng ít.
Do tầm quan trọng của thức ăn trong mô hình nuôi, nghiên cứu so sánh giữa tác động của chế độ ăn nổi và chìm với các mức độ probiotic khác nhau đối với năng suất tăng trưởng, khả năng sử dụng thức ăn và thành phần hóa học đối với cá rô phi đơn tính để xác định tác dụng của probiotic ở từng dạng thức ăn.
Trong nghiên cứu, cá có khối lượng trung bình ban đầu nặng 60g được thả với mật độ 5 con/m3 cho tất cả các nghiệm thức được cho ăn chế độ ăn nổi và chìm được bổ sung với ba mức lợi khuẩn (bao gồm chất tan lên men từ mật đường cô đặc (MOS), Bacillus subtilus, các enzym (xylanase, hemicellulase, β-glucanase) và natri bentonit là 0%, 1% và 2% trong chế độ ăn. Cá giống được cho ăn chế độ ăn thương phẩm chứa 25,2% protein thô và với tỷ lệ cho ăn 4% trọng lượng thân trong 1,5 tháng đầu và 3% cho đến khi kết thúc thí nghiệm.
Nuôi cá rô phi bằng chế độ ăn nổi và chìm đều không làm suy giảm đáng kể các thông số chất lượng nước. DO dao động từ 3,8 ± 0,22 mg/L đến 4,1 ± 0,22 mg/L. Nồng độ amoniac đơn hóa dao động từ 0,09 ± 0,017 mg/L đến 0,11 ± 0,017 mg/L. Tất cả các chỉ tiêu chất lượng nước được kiểm tra đều phù hợp để ương cá rô phi.
Trọng lượng và chiều dài cơ thể cá, khi bắt đầu và kết thúc thí nghiệm bị ảnh hưởng bởi loại thức ăn (thức ăn viên nổi và chìm). Cá có trọng lượng ban đầu là 60g, khi kết thúc thử nghiệm, trung bình trọng lượng cơ thể dao động từ 198 ± 1,18 đến 163 ± 6,41g.
Trung bình của chiều dài cá ban đầu là 14,3 ± 0,15 đến 14,0 ± 0,15cm; trong khi khi kết thúc thí nghiệm, chiều dài cơ thể trung bình lần lượt là 19,2 ± 0,17 cm đến 21,3 ± 0,33. Sinh khối khi kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức cho ăn thức ăn nổi và bổ sung 1% probiotics cho kết quả cao nhất, kế đến là nghiệm thức bổ sung 2% probiotics và cao hơn so với các nghiệm thức cho ăn thức ăn chìm. Kết quả này chỉ ra rằng trọng lượng và chiều dài cơ thể của nhóm thức ăn nổi cao hơn so với nhóm thức ăn chìm có bổ sung probiotic (0%, 1% và 2%).
Tăng trọng trung bình hàng ngày (ADWG): Trong giai đoạn thí nghiệm bị ảnh hưởng bởi loại thức ăn (thức ăn viên nổi và chìm), trong đó ADWGs đối với thức ăn nổi cao hơn (P <0,05) so với thức ăn viên chìm. Tăng trọng hàng ngày của cá rô phi thay đổi từ 1,43 ± 0,03 đến 1,07 ± 0,09 g. SGR trung bình của thức ăn viên nổi là 1,24 ± 0,007 cao hơn so với thức ăn viên chìm là 1,03 ± 0,043% / ngày.
Tỷ lệ sống: Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống, dao động từ 88,30 đến 96,70%.
Nghiên cứu kinh tế: Các thông số về hiệu quả kinh tế của khẩu phần thử nghiệm cho thấy chế độ ăn kiểm soát ghi nhận mức giá thấp nhất tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không cao. Các khẩu phần ăn nổi 1% và 2% cho thấy cá tăng trọng cao nhất so với các khẩu phần khác. Do đó, khẩu phần ăn nổi 1% cho thấy chi phí thức ăn/ g tăng trọng là thấp nhất.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế của cá rô phi đơn tính nuôi trong ao đất tăng lên đáng kể khi chúng được cho ăn thức ăn viên nổi có bổ sung probiotic ở mức 1%.