Từ vùng cao xuống đồng bằng: Hành trình của cá tầm Việt
Sinh ra ở làng Thủy Trầm (Phú Thọ), nơi nổi tiếng với nghề nuôi cá chép đỏ phục vụ dịp ông Công ông Táo, anh Bùi Văn Minh đã mạnh dạn chuyển hướng sang nuôi cá tầm khi nhận thấy tiềm năng thị trường. Anh cùng 19 người khác góp vốn vào hệ thống trang trại do anh Bùi Văn Lắm sáng lập, tổng giá trị đầu tư lên tới 100 tỷ đồng.
Các trang trại này trải dài ở Phú Thọ, Tuyên Quang, Lào Cai, sản xuất hàng triệu con cá giống và hàng trăm tấn cá thịt mỗi năm. Năm 2023, doanh thu mảng cá giống đạt 100 tỷ đồng với lợi nhuận khoảng 30%. Sang năm 2024, hệ thống bắt đầu nuôi cá thịt, bán ra 80 tấn, thu về 14 tỷ đồng. Dự kiến năm 2025, sản lượng có thể đạt 800 tấn cá thịt và hàng triệu con cá giống.
Thế nhưng chỉ trong vài tháng gần đây, thị trường đột ngột chững lại. Các thương lái vốn thường xuyên đến thu mua cả tấn mỗi ngày nay gần như biến mất, đơn hàng giảm mạnh, thậm chí nhiều bể cá giống đã nuôi quá lứa vẫn nằm chờ khách.
Anh Bùi Văn Lắm bên con cá tầm đã đến kỳ xuất bán. Ảnh: Dương Đình Tường
Giá lao dốc, đầu ra tắc nghẽn
Theo anh Lắm, đầu năm 2025, cá giống được bán 15.000–20.000 đồng/con, cá thịt 160.000–170.000 đồng/kg. Nhưng từ tháng 5 trở lại đây, giá cá giống giảm một nửa, còn 8.000 đồng/con (dưới giá thành sản xuất), cá thịt xuống 130.000 đồng/kg. Đáng lo hơn là thị trường gần như “đóng băng” khi thương lái không mặn mà thu mua.
Nguyên nhân, theo anh, xuất phát từ việc nguồn cung trong nước tăng nhanh trong khi lượng cá tầm nhập khẩu từ Trung Quốc đổ về nhiều. Chỉ riêng Hà Nội, mỗi ngày có khoảng 10 tấn cá tầm Trung Quốc được đưa vào tiêu thụ với mức giá thấp hơn hoặc tương đương cá Việt.
Điều này khiến người nuôi trong nước buộc phải giảm giá để cạnh tranh, trong khi chi phí thức ăn, điện và nhân công mỗi ngày tiêu tốn cả trăm triệu đồng.
Cá tầm giống chứa đầy trong bể mà không bán được. Ảnh: Dương Đình Tường
Cuộc cạnh tranh khó phân định
Trước đây, cá tầm Trung Quốc chủ yếu vào Việt Nam qua đường tiểu ngạch, giá rẻ hơn cá Việt khoảng 20–30 nghìn đồng/kg và phải có xác nhận nguồn gốc từ chính quyền địa phương khi xuất bán. Nay, hàng nhập khẩu chính ngạch đã xóa bỏ rào cản này, khiến việc phân biệt cá nội – cá ngoại trở nên khó khăn.
Ngoại hình cá tầm Trung Quốc và Việt Nam gần như giống nhau, chỉ khác phần thịt: cá Việt vàng hơn, béo hơn, còn cá nhập có thịt trắng, nhạt và nhanh bở nếu nuôi nhốt lâu. Tuy vậy, nhiều nơi vẫn bán cá nhập dưới mác cá Việt, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Vây lưới thu hoạch cá tầm ở trang trại của anh Lắm. Ảnh: Dương Đình Tường
Gánh nặng tài chính và nguy cơ thanh lọc
Anh Lắm cho biết, toàn bộ hệ thống sử dụng nước đầu nguồn, không kháng sinh, không hóa chất, thức ăn chất lượng cao để đảm bảo thịt ngon. Nhưng việc tiêu thụ chậm khiến các trại giống và trại thịt đều quá tải.
Riêng anh đã phải cầm cố 4 sổ đỏ để vay vốn, còn 19 nhà đầu tư khác cũng mang khoảng 40 sổ đỏ thế chấp. Mỗi ngày, chi phí thức ăn, nhân công, điện lên tới 150 triệu đồng. Hiện 1 triệu con cá giống đã nuôi quá ba tháng vẫn chưa bán được, trong khi 800 tấn cá thịt cũng chưa có đầu ra.
“Nghề nuôi cá tầm của Việt Nam giống như đứa trẻ mới tập đi, chưa kịp trưởng thành đã phải tự bơi trong làn sóng cạnh tranh khốc liệt”, anh nói.
Cần một hàng rào kỹ thuật và minh bạch nguồn gốc
Cuối tháng 7, Hội cá nước lạnh tỉnh Lào Cai đã họp và kiến nghị các trại liên kết giữ giá, nâng chất lượng để cạnh tranh. Theo ước tính, cá tầm Trung Quốc hiện chiếm khoảng 50% thị phần tại Việt Nam.
Anh Lắm đề xuất cần tem truy xuất nguồn gốc rõ ràng, địa điểm bán cá tầm Việt tại Hà Nội để người tiêu dùng nhận diện, đồng thời áp dụng hàng rào kỹ thuật để kiểm soát số lượng và chất lượng cá nhập. “Không thể cấm nhập khẩu, nhưng nếu không có giới hạn, cá tầm Việt sẽ càng khó trụ vững”, anh nhấn mạnh.
Theo Dương Đình Tường, báo Nông nghiệp và Môi trường