Cũng có thể tìm được những giải pháp khác khi các yếu tố vừa nêu không thuận lợi và là những khó khăn hiện thời, nhưng chi phí đầu tư và vận hành có thể gia tăng, và điều đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lãi. Ở các cơ sở có quy mô nhỏ, cần phải xác định rằng vị trí chọn lựa phải là nơi có thể tiếp cận được dễ dàng với các loại nguyên liệu mà không thể tự sản xuất ở trại được, cũng như có đủ các dịch vụ khuyến ngư cần thiết.
Những thông tin về nguồn nước và khí tượng ở địa điểm chọn lựa (thường có thể tham khảo ở các cơ quan về khí tượng và thủy văn) như biên độ và nhiệt độ trung bình theo tháng, lượng mưa, độ bốc hơi, mức chiếu sáng, tốc độ và hướng gió, lũ lụt, mực nước ngầm…phải được khảo sát để đánh giá tính phù hợp của chúng.
Đối với nghề nuôi thủy sản nội địa, những cơ sở thường được thiết lập là ao nuôi cá và trại giống. Vì phần lớn những trại này có các ao đất, nên tính chất đất, chất và lượng của nguồn nước có sẵn cũng như việc cấp nước tưới tiêu dễ dàng, theo phương thức tự chảy, là những điều căn bản cần xem xét. Với những trại cá nước ngọt, đất sử dụng thường là những vùng đất ngập nước, đất bạc màu, các thung lũng hay nền đáy sông suối trơ cạn do nước đổi dòng…Độ mặn cao nhất của mực nước lũ phải được xác định rõ ràng. Mực nước lũ cao nhất trong 10 năm cuối hoặc là mức nước thủy triều cao nhất (đối với các trại ở vùng nước lợ) không được cao hơn chiều cao bình thường của các tuyến đê dự tính sẽ xây dựng cho trại. Sẽ có lợi nếu chọn vùng đất có độ dốc nhỏ hơn 2%. Khu vực cần phải đủ rộng để có thể mở rộng được về sau, và có hình dạng cân đối để dễ thiết kế và xây dựng…
Đặc điểm của cây cối cũng nói lên loại đất và độ cao của mực nước ngầm. Cây cối dày đặc, nhất là có nhiều cây cao, làm cho việc phát quang trở nên khó khăn và tốn kém. Đất có nhiều cỏ và cây bụi thì phát quang dễ hơn. Tuy nhiên, ở những vùng hay có gió mạnh và xoáy lốc, hoặc có điều kiện thời tiết tương tự như vậy, có cây cao bao quanh trại sẽ cản được gió. Mực nước ngầm cao có khi gây khó khăn trong quá trình vận hành trại vì việc tiêu nước sẽ khó khăn và tốn kém. Việc sử dụng phương tiện cơ giới để xây dựng ao cũng trở nên bất tiện.
Những yếu tố quan trọng khác cũng cần xem xét là nguồn gây ô nhiễ hiện tại cũng như sau này và đặc điểm của tất cả các chất gây ra ô nhiễm. Về khía cạnh này, những thông tin về chương trình phát triển của khu vực xung quanh sẽ rất cần thiết. Cũng hữu ích nếu có thể biết chắc trước đây khu vực chọn đã được sử dụng như thế nào. Đất trồng trọt có thể sử dụng hóa chất phòng trừ địch hại lâu ngày có thể còn tồn lưu gây hại cho cá cũng như cho các loài có vỏ chất vôi. Các địa điểm chọn lựa nằm bên cạnh vùng đất trồng trọt có phun thuốc từ trên không hay từ mặt đất, sẽ có khả năng bị nhiễm độc trực tiếp hoặc do nước chảy tràn. Tương tự như vậy, những ảnh hưởng có thể có do khu vực xung quanh cũng cần được xem xét. Nó có thể ảnh hưởng lớn đến thái độ của cộng đồng xung quanh, tới công việc làm ăn dự tính và vì vậy ảnh hưởng tới sự hợp tác trong tương lai.
Khi một trại giống được thiết kế gắn liền với hệ thống ao ương thì việc chọn địa điểm sẽ tùy thuộc vào vị trí của các ao ương san. Điều quan trọng cần xem xét là nguồn nước không bị hạn chế cả về chất cũng như về lượng, chẳng hạn như mạch suối, giếng ngầm, hồ chứa…Nếu các ao ương được xây dựng dọc theo trại giống, cần phải bảo đảm chất lượng của đất cho việc xây dựng cũng như quản lí ao. Ở các trại giống hiện đại, việc ương các con chủ yếu được thực hiện trong bể hoặc trong máng, và quản lý được điều kiện xung quanh càng nhiều càng tốt. Bởi vậy các yếu tố cần lưu ý là khả năng có được các phương tiện cần thiết, chẳng hạn như điện. Việc lựa chọn địa điểm cho một cơ sở nuôi nước chảy cũng có yêu cầu tương tự. Khi hệ thống nước chảy được xây dựng kiên cố bằng betong thì yếu tố chính cần để ý là khả năng cấp đủ nước có chất lượng tốt và những phương tiện thiết yếu khác.
Việc chọn địa điểm cho cơ sở nuôi kết hợp, chẳng hạn nuôi cá kết hợp với trồn trọt và chăn nuôi, bị chi phối nhiều yếu tố khác là chỉ dựa vào sự phù hợp cho nuôi thủy sản. Đất dùng cho cơ sở nuôi kết hợp thường là đất nông nghiệp, có khi kém màu mỡ. Trong trường hợp việc quản lý đất và nước muốn được dễ dàng, một hệ thống thủy lợi tốt có lẽ cần phải phát triển cho ngành nông nghiệp. Vì cơ sở nuôi kết hợp dựa vào việc quay vòng và sử dụng chất thải ở trại, những vấn đề về ô nhiễm sẽ ít xảy ra.
Pillay, 1990
Trích từ Nuôi Trồng Thủy Sản: Nguyên Lý và Ứng Dụng
Nhà Xuất Bản Fishing News Books