Biển xâm thực dọc các miền duyên hải. Một thông điệp đều đặn, công bằng gửi đến tất cả những nơi có ngấn nước mặn mòi. Để rồi người ta nhớ đến biển bằng những đê kè, chắn sóng và tiếp sau đó là sự ra đời của các khu du lịch.
Biển ấm hơn bởi những bước chân người nối nhau tinh khôi trên cát sau những lần thủy triều dâng. Và rồi, như một biến thiên của lịch sử, những ngư dân lặng lẽ bám biển bao đời bỗng trở thành tâm điểm trước ống kính của khách du lịch.
Những hoạt động chài lưới bỗng dưng được quan sát tỉ mỉ. Biển tình cờ thành một "sân khấu", ngư dân tình cờ trở thành những nhân vật chính trên sân khấu cuộc đời trước những cuộc du lãm của chúng ta. Biển ngày một ăn sâu vào đất liền bằng sóng, bên tiếng sóng ầm ào ấy, một cuộc sống mới cũng trở nên sôi động hơn.
Nhưng vẫn còn đó một cuộc sống lặng lẽ, còn đó những nếp nhà cũ kỹ khiêm nhường bên nhịp sống mới khẩn trương. Đến vùng biển Hải Hậu (Nam Định), từ múi đất Thịnh Long, chỉ cần ngược lên mạn Đông Bắc chừng mươi cây số là đã gặp làng Hải Triều cổ xưa với nhịp sống bình yên sau những biến thiên của biển.
Ấn tượng đầu tiên với chúng tôi là dấu tích của khúc đê quai bị vỡ. Những viên đá hộc còn nằm lại bên này khúc đê bê tông vững vàng mới đắp lên, nhưng cũng đủ khiến ta rùng mình đứng lại. Chẳng biết khi ấy, những căn nhà ngói mái ri đỏ với giàn mướp hương, đầm tôm khi đó sẽ lao đao trong trận đồ cuồng bạo của sóng biển như thế nào?
Đi xa thêm chút nữa là những mái nhà đã bỏ hoang, dường như có một ngôi nhà thờ đạo cũng đóng cửa khá lâu với những cánh cửa đã bị thứ gió mang theo vị muối mặn gặm mòn. Màu vàng sẫm đã ngả dần sang gam nâu tối là chứng tích của một quá khứ đầy ắp những đợt tàn phá khốc liệt của biển.
Nằm giữa một bên là biển, một bên là dòng sông nước ngọt Ninh Cơ nhận nước nguồn ký thác của sông Bôi, sông Đáy, sức mạnh của nước ngọt lấn biển tới mức ngay sát những vòng đê quai, nếu khoan sâu xuống, vẫn hút được những giọt nước ngọt.
Có thể, chính sự ưu đãi của tạo hóa khi vừa ban cho lòng biển rộng chứa đầy tôm cá, vừa không quên đặt sau lưng Hải Triều một dòng sông để tưới tắm ruộng đồng đã khiến cho con người ở đây thuần hậu và điềm tĩnh.
Trên một cái sân rộng, nơi có con đường liên thôn bê tông khang trang nối từ đường đê vào trong xóm, ngôi nhà trụ sở cũ của UBND có kiến trúc khá lạ khi hai gian đầu hồi lại được vòng phía trước. Có thể một thời đã từng là cách thiết kế phổ biến mà các bác thợ hồ đã xây dựng. Và biết đâu, đó là cách để những trụ sở xây cấp 4 ngày đó chống chịu trước sức mạnh của bão gió.
Giờ trụ sở chính quyền đã chuyển vào sâu hơn trong đất liền bởi biển đã xâm thực vào đây khá sâu. Một đôi vợ chồng trẻ đã thuê lại để làm chỗ ngâm sứa biển trước khi đóng hộp bán cho khách du lịch ưa thích loại hải sản giòn ngọt này hay thương lái về thu gom để đưa lên cửa khẩu Trung Quốc.
Kho muối
Nhìn những bể ngâm sứa của anh chị với quy mô vốn liếng dễ lên đến bạc tỷ, chợt thấy những ngư dân trẻ đã có phương cách linh hoạt như thế nào trong cách bám biển. Nhưng qua câu chuyện của anh, tôi được biết vẫn còn đó những nghề rất cũ được bà con gìn giữ.
Nếu chỉ lướt qua trên đường bê tông, ta sẽ dễ cho rằng giờ chỉ còn những đầm tôm đắp bê tông, những bể ngâm hải sản là cách làm ăn vừa thức thời, vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, thời gian canh tác lại không lâu. Nhưng ngược vào trong làng, trước mắt tôi vẫn nhận ra cánh đồng muối Hải Triều mênh mông dù thời điểm này chưa phải thời vụ của muối.
Nhưng nghề làm muối ở đây lại có những điểm rất lạ so với cách làm muối ở các tỉnh miền Nam. Vị ngọt của dòng sông Ninh Cơ đã làm loãng đi vị mặn khiến cho hàm lượng muối ở đây không được cao.
Chính vì lẽ đó, bà con phải chờ đến khi chất muối ngấm lên khỏi mặt cát vào những ngày nắng nóng mới vét vào các máng, để lắng xuống các thống muối, đợi lặng kết rồi vớt lên phơi cho đến khi có các hạt muối tinh.
BND xã trước đây
Mỗi ô vuông tròm trèm 5m2 như thế cũng chỉ cho thu nhập chừng hai chục ngàn đồng. Một cái nghề tưởng đơn giản vì chỉ chắt nước biển ra thành tiền nhưng lại ẩn chứa bao nỗi vất vả, cơ cực.
Anh Long, diêm dân từ nhỏ đã theo cha mẹ lặn lội trên các ruộng muối, giờ đã chuyển sang nuôi thêm đầm tôm, mấy luống lạc nhưng vẫn không từ bỏ khoảnh ruộng muối mặn mòi vị biển và mồ hôi của mình. Theo lời anh kể, tôi hiểu rằng không phải ai cũng đủ sự kiên trì để sống với nghề truyền thống vất vả này.
Nhưng nhìn cánh đồng muối, nhìn những kho muối lầm lũi như những kim tự tháp trên cát và nghĩ đến những bữa cơm hằng ngày của mọi nhà với nhúm muối rẻ tiền nhưng đã tạo nên cái vị đậm đà gắn kết gia đình; tạo nên sức bền bỉ của nền nếp nhà người Việt lại thấy chút chạnh lòng khi nghĩ về những người làm muối như anh.
Không có người bám biển làm muối, không có người không chê rẻ, ngại nghèo khó thì biết đâu lại thiếu đi một thứ dư vị rất riêng trong cuộc sống. Những tháp chuông nhà thờ vẫn đổ chuông yên lành trên cửa biển Hải Hậu, những làng quê vẫn yên ả và bền bỉ một sức sống bên sóng biển ồn ào...