Theo các tài liệu, trong tự nhiên, vòng đời của tôm càng xanh có 4 giai đoạn rõ ràng là trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. Tôm trưởng thành sống ở vùng nước ngọt, thành thục và giao vĩ trong nước ngọt, nhưng sau đó chúng di cư ra vùng nước lợ đẻ (có độ mặn 6-18%o) và ấu trùng nở ra sống phù du trong nước lợ. Khi hoàn thành 11 lần lột xác để thành tôm con thì tôm di chuyển dần vào trong vùng nước ngọt.
Ở ÐBSCL có 2 mùa tôm sinh sản chính là tháng 4-6 và tháng 8-10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khoảng 3-3,5 tháng (đạt khoảng 40 g, hay 140-150 cm chiều dài) kể từ hậu ấu trùng 10-15 ngày tuổi (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục được ghi nhận là khoảng 10-13 cm và chỉ đạt 7,5 g. Tuy nhiên, tuổi thành thục và kích cỡ thành thục của tôm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường, thức ăn và tôm cái khi thành thục thì mang trứng nên rất chậm lớn.
Về giới tính, tôm đực có kích cỡ lớn hơn tôm cái, đầu ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn. Tôm cái thường có phần đầu ngực nhỏ và đôi càng thon, có 3 tấm bụng đầu tiên rộng và dài tạo thành khoang bụng rộng làm buồng ấp trứng.
Tôm càng xanh xác định thức ăn bằng mùi và màu sắc, tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác (râu). Ðây là loài ăn tạp nghiêng về động vật, thức ăn tự nhiên của chúng là các loại nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể, các mảnh cá vụn, các loài tảo, mùn bã hữu cơ và cát mịn. Khi tìm được thức ăn, chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp gắp thức ăn đưa vào miệng.
Tôm thường bò trên mặt đáy ao bắt mồi nhiều vào chiều tối và sáng sớm, dùng càng nhỏ đưa mồi vào miệng. Trong thời gian ấp trứng, tôm cái có thể nhịn ăn vài ba ngày. Tôm càng xanh có một đặc tính loài đáng lưu ý là nếu không đủ thức ăn, chúng hay ăn thịt lẫn nhau khi lột xác, nên khi nuôi tôm thương phẩm phải đề phòng hiện tượng này để có giải pháp thích hợp hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau.
Tôm càng xanh trưởng thành thường ăn tầng đáy, tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác. Chúng dùng râu quét ngang, dọc phía trước hướng di chuyển. Trong quá trình tìm thức ăn, tôm có tính tranh giành cao, cá thể nhỏ thường tránh xa đàn hay khi tìm được một miếng thức ăn thì di chuyển đi nơi khác, trong khi đó con lớn vẫn chiếm chỗ và đánh đuổi tôm nhỏ.
Về lột xác, giống như các loài giáp xác khác, để sinh trưởng, tôm càng xanh lột vỏ theo chu kỳ. Quá trình này được gọi là sự lột xác và tiếp theo sau mỗi lần lột xác đó là sự gia tăng đột ngột về kích thước và trọng lượng.
Tốc độ sinh trưởng của tôm đực và cái gần như tương đương nhau, cho tới khi chúng đạt kích cỡ 35-50 g, sau đó khác nhau rõ theo giới tính. Tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt trọng lượng có thể gấp đôi tôm cái trong cùng một thời gian nuôi, nên có hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh là sự phân đàn khá rõ, kể cả trong cùng một nhóm giới tính. Ðây là ưu điểm của tôm càng xanh toàn đực.
Tôm càng xanh là loài thích nghi với biên độ nhiệt rộng, từ 18-34oC. Nhiệt độ tốt nhất từ 26-31oC; cần ánh sáng vừa phải, cường độ thích hợp nhất là 400 lux, ánh sáng cao sẽ ức chế hoạt động của tôm. Do vậy, ban ngày tôm xuống đáy thuỷ vực trú ẩn, ban đêm hoạt động tìm mồi tích cực. Mức pH thích hợp nhất là 6.5-8.5, pH dưới 5 tôm hoạt động yếu và chết sau 6 giờ. Khi gặp môi trường có pH thấp, tôm sẽ nổi đầu, dạt vào bờ, mang đổi màu, mang và các phụ bộ bị lở loét, tôm bơi lội chậm chạp và chết sau đó. Môi trường sống phải có oxy hoà tan > 3 mg/l, dưới mức này tôm hoạt động yếu, tập trung ven bờ, nổi đầu và chết sau vài giờ. Tôm càng xanh chỉ thích hợp ở nồng độ muối từ 0-16%o, tôm trưởng thành sinh trưởng tốt ở vùng cửa sông ven biển./.