Gia đình anh Nguyễn Văn Tới, ấp Tân Bình, xã Tân Ðức, huyện Ðầm Dơi, gom hết toàn bộ vốn liếng sau bao năm tích luỹ từ hơn 1 ha nuôi tôm quảng canh để đào 2 ao tôm công nghiệp với diện tích gần 3.000 m2. 2 vụ nuôi liên tục đầu tiên trong những tháng cuối năm 2015 và đầu năm 2016 này gia đình anh được xem là khá thành công khi tôm không bị “gãy gánh” giữa đường như một số người hàng xóm. Mặc dù thành công nhưng mỗi lần nhắc về 2 vụ nuôi trước anh không có gì vui vẻ: “Dù tôm không chết nhưng vẫn xem như là thất bại”.
Phải "liệu cơm gắp mắm"
Anh Tới cho biết thêm, trong 2 vụ nuôi đầu, sau gần 3 tháng thả nuôi, mỗi ao thu hoạch được khoảng 1,2 tấn tôm loại 85 con/kg. Tuy nhiên, vụ đầu tiên chỉ lấy lại vốn do đúng lúc giá tôm quá thấp (80.000 đồng/kg), còn vụ thứ 2 mỗi ao có lời khoảng 20 triệu đồng, chưa tính tiền công, nhất là bao đêm thức trắng. “Nuôi tôm công nghiệp mà lợi nhuận cỡ này thì xem như thất bại, chỉ đủ tiền thả lại giống cho vụ sau, còn tiền cải tạo phải bỏ thêm, nếu gãy thêm 1 đợt xem như thiếu nợ tiền thức ăn, thuốc, hoá chất là chắc”, anh Tới bộc bạch.
Một trong những nguyên nhân khiến việc nuôi tôm của gia đình anh không mang lại lợi nhuận do chi phí đầu vào quá cao. Kinh tế gia đình không phải thuộc hàng dư dả gì, vốn liếng bao năm tích luỹ chỉ đủ để đào ao, mua sắm quạt, một số vật dụng cần thiết khác và thả giống. Còn lại toàn bộ thức ăn, thuốc thú y thuỷ sản phải mua thiếu từ các đại lý. Gọi là đại lý đầu tư nhưng giá mỗi ký thức ăn hay một chai thuốc anh phải chấp nhận cao hơn giá thị trường từ 10-15%.
Không chỉ thiếu vốn, phải chấp nhận giá thành đầu vào phục vụ cho sản xuất tăng cao, mà ngay cả việc phối trộn thức ăn và số lượng cho ăn hiện nay của gia đình anh Tới cũng đang dẫn đến lãng phí. Hiện nay, 2 ao tôm thẻ chân trắng vụ 3 của gia đình anh Tới được hơn 2 tháng, tôm đang trong kích cỡ khoảng 90 con/kg.
Anh Tới cho biết, hiện mỗi ngày anh cho ăn khoảng 60 kg thức ăn. Nếu tính toán lại theo lượng tôm gia đình thả là 110.000 con thì hiện lượng tôm dưới ao của gia đình anh chỉ khoảng 1,2 tấn (trường hợp tỷ lệ sống đạt 100%). Như vậy, căn cứ theo công thức tính lượng thức ăn cho tôm thẻ chân trắng thì mỗi ngày chỉ cần cho ăn khoảng 40 kg là đủ. Như vậy, nếu đúng như lời anh chia sẻ thì hiện nay anh đang lãng phí một lượng lớn thức ăn mỗi ngày, đồng nghĩa với lợi nhuận của gia đình đang được chính anh bỏ đi hằng ngày dưới các đầm tôm.
Trong khi thức ăn hiện có giá khá cao, với khoảng 28.000-30.000 đồng/kg và chiếm khoảng 50% chi phí của 1 vụ nuôi, việc tính toán sai lệch như gia đình anh Tới không chỉ dẫn đến sự lãng phí lớn về tiền bạc mà còn mang lại hệ luỵ về môi trường ao nuôi trước mắt và lâu dài. Theo anh Tới, 1 vụ nuôi mỗi ao phải tiêu tốn khoảng 25-30 triệu đồng cho tiền hoá chất xử lý môi trường ao nuôi, thuốc thú y thuỷ sản...
Thay đổi cách thức tổ chức sản xuất
Cũng là loại hình nuôi công nghiệp, cùng đối tượng là con tôm thẻ chân trắng, nhưng những tháng đầu năm 2016 gia đình ông Tô Hoài Thương, ấp Tân Ðiền, xã Tân Duyệt, huyện Ðầm Dơi, vô cùng phấn khởi khi tất cả 3 ao nuôi của gia đình đều mang lại hiệu quả cao. Ông Thương chia sẻ, trong vụ nuôi vừa qua, toàn bộ 3 ao nuôi của gia đình, trừ hết chi phí, mang về lợi nhuận trên 700 triệu đồng. Nếu so với gia đình anh Tới thì có sự khác biệt vô cùng lớn và sự khác biệt đó nằm ngay ở cách tổ chức sản xuất của 2 gia đình.
Ông Thương là thành viên của Tổ Nuôi tôm an toàn sinh học ấp Tân Ðiền. Ðể thành công như vụ nuôi vừa qua, các ao nuôi của gia đình được đầu tư khá bài bản. Bên cạnh hệ thống máy tạo ôxy, máy cho ăn tự động, gia đình ông còn đầu tư hệ thống kiểm tra bùn đáy ao; ao lắng được thả nuôi cá rô phi... Ðặc biệt, ông còn xây dựng cả khu vực trên 3.000 m2 trồng cây đước, mắm, làm nơi chứa để xử lý môi trường khi cải tạo ao. Có ghi chép sổ sách, không xả nước thải trực tiếp ra môi trường, phải có ao chứa nước thải, chủ động trong giám sát môi trường và dịch bệnh, không sử dụng kháng sinh, có sử dụng cá rô phi trong suốt quá trình nuôi để cải tạo môi trường.
“Sở dĩ có lợi nhuận cao là do chi phí đầu vào khá thấp, nhất là khoản kinh phí đầu tư cho các loại hoá chất, kháng sinh xử lý môi trường trong quá trình nuôi cũng như tình trạng dịch bệnh trên tôm rất thấp, kiểm soát được lượng thức ăn”, ông Thương chia sẻ kinh nghiệm.
Cũng với cách làm này, gia đình ông Võ Hoàng Danh cùng ấp đã mang về lợi nhuận bạc trăm triệu chỉ với 1.800 m2. Nhớ lại vụ thu hoạch hồi tháng 2 vừa rồi, ông Danh vẫn còn vô cùng phấn khởi. Với 180.000 con giống, chỉ sau 3 tháng thả nuôi thu hoạch 2,3 tấn, tôm đạt kích cỡ 63 con/kg. Ðây là sản lượng ngoài mong đợi của gia đình và là cao nhất mà 1 ao nuôi thu được kể từ khi gia đình biết nuôi tôm công nghiệp đến nay. Trên đà thành công của vụ nuôi trước, hiện gia đình đang tiếp tục phát triển mô hình này và tôm đã được gần 2 tháng tuổi, đang phát triển khá tốt, tiếp tục hứa hẹn 1 vụ nuôi thành công.
Cùng 1 loại hình nuôi, cùng 1 đối tượng, nhưng rõ ràng với cách thức tổ chức sản xuất khác nhau, lợi nhuận giữa anh Tới so với ông Thương, ông Danh là quá chênh lệch. Ít vốn nhưng lại gồng mình nuôi liều, khi thu hoạch lợi nhuận không cao như anh Tới là lý do khiến tỷ lệ treo đầm hiện nay khá cao, với trên 45% diện tích hiện có.
Theo Kỹ sư Lê Văn Sử, Giám đốc Sở NN&PTNT, tỷ lệ treo ao hiện nay của các đầm công nghiệp xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một phần do giá tôm chưa ổn định, nhưng chủ yếu là do người dân đang thiếu vốn. Sở đã có nhiều biện pháp để phát triển nghề nuôi tôm công nghiệp, trong đó, có việc phân loại hộ để khuyến cáo áp dụng mô hình nuôi mới hợp lý và hiệu quả hơn như: nuôi ao nhỏ có trải bạt, nuôi tôm an toàn, nuôi xen canh cá rô phi...
Nuôi tôm công nghiệp là lĩnh vực được xem là chủ đạo cho nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh. Do đó, việc tìm ra một hướng đi mới, một mô hình mới hiệu quả hơn đang là vấn đề bức thiết hiện nay để nghề nuôi phát triển bền vững trong tương lai./.
Kỹ sư Lê Văn Sử, Giám đốc Sở NN&PTNT, cho rằng, hiện nay tốc độ lan toả của các mô hình nuôi ao nhỏ có trải bạt, nuôi tôm an toàn, mô hình nuôi xen canh cá rô phi... còn chậm. Ông Sử thừa nhận, việc này có trách nhiệm từ ngành NN&PTNT. Thời gian tới sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chuyên môn của sở đẩy nhanh phát triển các mô hình hiệu quả hiện nay trong điều kiện nghề nuôi đang đối diện với nhiều khó khăn.