Bài viết được tổng hợp bởi Thefishsite.com dựa trên ý kiến của 3 chuyên gia thủy sản là Erik Vis – Tổng giám đốc bộ phận cá của Tổng công ty nuôi trồng thủy sản Quốc gia (NAQUA) tại Saudi Arabia và là cựu giám đốc của Open Blue trang trại cá Bớp tại Panama; Andrew Leingang- cố vấn nuôi trồng thủy sản tại Aquagrow International, người có hơn 50 năm kinh nghiệm quản lý và tư vấn cho các trang trại nuôi cá ở Mỹ, Châu Á và Úc; cuối cùng là Thomas Sommer – giám đốc bộ phận thực phẩm tại Eurogroup Far East, văn phòng mua hàng của tập đoàn bán lẻ COOP tại Switzerland có trụ sở tại Hong Kong.
Theo Leingang: “Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng nặng nề đến các công ty thủy sản nhưng vẫn nhạt nhòa so với dịch Covid – 19 hiện nay. Những công ty vượt qua được cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã thực hiện các bước trong thay đổi cách vận hành trang trại và bán sản phẩm của doanh nghiệp mình”. Điều tương tự cũng cần được thực hiện ngay lúc này.
1. Nới lỏng các yêu cầu về kích cỡ
Cho đến bây giờ, thị trường xuất khẩu như Châu Âu và Bắc Mỹ đều áp dụng các định mức cỡ cá cụ thể cho các loài cá tươi: 300-400g cho cá Tráp Biển; cá Chẽm Châu Âu là 400-450g và 600-800g đối với cá Rô Phi phi lê. Vậy sẽ ra sao nếu người nuôi không đáp ứng được yêu cầu này.
Trong đợt đại dịch, vì sự hạn chế của việc này mà dẫn đến việc phải loại bỏ cá nhằm giảm chi phí thức ăn. Khi cá bị loại bỏ tràn ngập thị trường thì người nuôi đã phải chịu đòn đau đớn – bán số lượng cá lớn nhưng giá thấp hơn giá thị trường.
Chấp nhận nhiều size khác nhau là một giải pháp thực tiễn cho cả người bán sỉ và lẻ.
Một giải pháp thực tiễn cho cả người bán sỉ và lẻ tại các thị tường xuất khẩu là giảm bớt yêu cầu về kích cỡ cá, từ đó có thể phát triển thêm các sản phẩm phi lê, thái hay kiểu cắt khác nhau.
Theo Leingang: “Điều này cho phép người dân bán sản phẩm của họ bất kể cỡ nào, các nhà khai thác sẽ có thể thu lợi nhuận, giữ giá thấp và làm cho giá cả thủy sản phải chăng hơn, dễ tiếp cận với khách hàng hơn”.
Một giải pháp khác chính là lựa chọn thị trường thay thế như Trung Quốc, ở Trung Quốc kích thước cá chưa bao giờ là vấn đề chính. Họ tiêu thụ hầu hết các cỡ cá khác nhau: cá Mú nhỏ hay cá Hồng trọng lượng cỡ 500g sẽ được bán giá thấp hơn cho thị trường bình dân, còn cá hơn 5kg sẽ được bán giá cao hơn ở mỗi kg.
2. Đa dạng hóa loài nuôi
Hầu hết các trại nuôi trồng thủy sản chỉ nuôi một loài. Tại Châu Âu, phần lớn là nuôi đơn, mỗi trang trại chỉ nuôi cá hồi hoặc cá chẽm, cá tráp biển hay các loài thực vật thủy sinh.
Đây là một chiến lược rủi ro khi có sự dao động giá thị trường hay sự bùng nổ dịch bệnh theo loài riêng biệt. Các chuyên gia đã chứng kiến điều này thường xuyên xảy ra với tôm và cá hồi qua những năm qua và gần đây là tình trạng rớt giá cá hồi khi các nhà hàng trên toàn thế giới đóng cửa. Ngược lại, giá sản phẩm thủy sản được bán qua các kênh bán lẻ vẫn giữ được giá ổn định.
Nuôi đồng thời nhiều loài có thể giúp người nuôi loại bỏ rủi ro của hình thức độc canh.
Đa dạng hóa bằng cách nuôi đồng thời nhiều loài có thể giúp người nuôi đẩy mạnh cạnh tranh trên thị trường thủy sản thế giới, trại sản xuất trở nên bền vững và độc lập hơn, đặc biệt là khi tập trung nuôi loài bản địa. Ứng cử viên phù hợp nhất cho việc đa dạng hóa gồm các loài cá bản địa, động vật thủy sinh có vỏ, hải sâm, thậm chí là rong biển.
Như Erik Vis giải thích: “Những loài bản địa thường được bán tốt hơn ở thị trường nội địa và sẽ bảo vệ người nuôi trước sự biến động giá theo loài”.
3. Tập trung vào thị trường nội địa
Giao thương nghiêm ngặt, đi lại bị hạn chế đã làm cho xuất nhập khẩu thủy sản trở nên khó khăn và đắt đỏ. Theo FlightRadar24- ứng dụng theo dõi máy bay trực tuyến, ước tính rằng vào tháng 3 năm 2020 tổng chuyến bay toàn cầu giảm một nữa so với cùng kì năm ngoái.
Chỉ vài hãng tàu và máy bay là có thể di chuyển giữa các quốc gia hay các lục địa, nhưng giá vận tải lại khá cao, mà giá thủy sản lại liên tục giảm mạnh. Thêm vào đó việc sử dụng vận tải đường bộ lại gặp nhiều rắc rối, như là việc phải dừng ở các trạm kiểm dịch và thông quan đã tăng thời gian vận chuyển nhiều hơn. Kết quả là giảm đáng kể lợi nhuận cho người nuôi.
Sau nhiều năm khó khăn trên thị trường quốc tế, năm nay cá tra Việt Nam quyết tâm bơi về nội địa.
Một giải pháp kinh doanh thông minh dành cho các nhà sản xuất là định hướng xuất khẩu bắt đầu phục vụ nhiều hơn thị trường nội địa. Tổng chi phí thấp sẽ bù cho giá thấp. Ngoài ra cung cấp dịch vụ giao hàng trực tuyến, trực tiếp đến người tiêu dùng sẽ đảm bảo được nhu cầu ổn định và an ninh lương thực quốc gia.
“Sản xuất thủy sản cho thị trường nội địa sẽ rẻ hơn và ít rủi ro hơn, ngoài ra còn rất thú vị và bổ tích hơn” theo Vis.
4. Đảm bảo đóng gói hàng hóa an toàn và truy xuất nguồn gốc
Các quốc gia nhập khẩu và những nhà tiêu thụ thủy sản hiện nay đang cảnh giác hơn bao giờ hết trong việc đảm bảo thực phẩm phải sạch bệnh. Covid-19 và một số dịch bệnh khác có thể chuyền qua thực phẩm nếu xử lý không đúng cách. Tại Trung Quốc, nhu cầu về cá hồi Chile đang lao dốc nhanh chóng sau khi chính quyền tìm thấy dấu vết của Covid-19 trên cá hồi nhập khẩu vào tháng 7/2020.
Một ví dụ khác chính là các sản phẩm tôm của Ecuador, dù một số chuyên gia sức khỏe cũng không có bằng chứng chứng minh việc lây truyền virus từ các sản phẩm thủy sản. Trong tháng 9/2020, Trung Quốc lần nữa nhắc nhở chú ý tránh nhập khẩu thực phẩm từ các quốc gia có số ca Covid-19 cao.
Truy xuất nguồn gốc vừa đảm bảo chất lượng thủy sản vừa đạt được tâm lý an tâm từ người tiêu dùng.
Thực tế, nhiều nhà nhập khẩu và người tiêu thụ vẫn còn e ngại đối với sản phẩm thủy sản nhập khẩu. Dù giá thấp hơn thì nhu cầu vẫn giảm mạnh vì nỗi sợ an toàn thực phẩm.
Vis tiếp tục cho biết: “Việc ghi nhãn và truy xuất nguồn gốc mang lại cho Chính phủ, nhà nhập khẩu, người tiêu thụ sự an tâm và việc truy xuất nguồn gốc đảm bảo hàng hóa chất lượng cao và quan trọng hơn là an toàn để ăn”.
Chế biến, đóng gói và niêm phong thủy sản tươi sống sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị nhiễm bẩn của sản phẩm. Niêm phong thích hợp sẽ ngăn virus, vi khuẩn và mầm bệnh lây nhiễm và làm bẩn mặt hàng như cá Hồi phi lê, thịt cá ngừ thăn, đặc biệt là tăng độ tin cậy của người tiêu dùng. Những nhà sản xuất nuôi trồng nên cân nhắc làm việc này tại nơi sản xuất thay vì nhờ một bên trung gian, nhằm đảm bảo sự an toàn.
Sự gia tăng chất dẻo sử dụng một lần do lo ngại về an toàn ở hầu hết các thị trường có thể được thay thế bằng cách sử dụng nhựa sinh học có nguồn gốc từ tảo và rong biển. Từ đó vừa nâng cao an toàn sinh học vừa bảo vệ môi trường.
5. Đông lạnh
Theo sự chia sẻ của tờ Seafood Source, một báo cáo gần đây của Nielsen cho biết chỉ riêng tại Mỹ thủy sản đông lạnh tăng 50.8% và thực phẩm tươi sống tăng 26.3%; sản phẩm có hạn sử dụng tăng 59.4% từ tháng 3 đến tháng 5, 2020.
Vis có quan điểm cứng rắn vào lợi thế của cá đông lạnh, ông cũng bảo vệ quan điểm của mình với khẩu hiệu: ““Freshly frozen is always fresher than fresh!" (”Sản phẩm tươi đông lạnh luôn tươi hơn sản phẩm tươi”). Theo ông, ít người thật sự biết được sự khác nhau giữa cá đông lạnh chất lượng cao và cá tươi, trong khi sản xuất cá đông lạnh có nhiều lợi thế hơn. Sản phẩm đông lạnh cũng được bán rẻ hơn.
“Freshly frozen is always fresher than fresh!” là một quan điểm thật sự phá cách.
Cá đông lạnh cũng được bán tốt nhất ở các cửa hàng bán lẻ dù kể cả lúc dịch bệnh. Để có thể bán hiệu quả cho các cửa hàng, người nuôi phải tập trung vào chất lượng và nhận thức được rằng người bán lẻ luôn có xu hướng trả giá thấp.
Cách li xã hội do dịch Covid-19 đã thúc đẩy doanh số của các sản phẩm thủy sản đông lạnh. Nhiều người chọn nấu ăn tại nhà để hạn chế ra ngoài và tiếp xúc mối nguy lây bệnh. Nhà hàng thì đóng cửa, cửa khẩu giữa các biên giới thì trở nên nghiêm ngặt nên mọi người tích trữ nhiều thức ăn hơn.
Hãy tự hào là người nuôi thủy sản
Trong giai đoạn Covid-19, có rất ít cách chắc chắn đảm bảo lợi nhuận thậm chí là là cả ngành công nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ quan trọng. Tuy nhiên, các nhà khai thác nuôi trồng thủy sản nên ngẩng cao đầu khi biết rằng họ đang cung cấp nhu cầu cơ bản nhất của con người - thực phẩm.
Ngoài ra còn các biện pháp giúp người nuôi có thể vượt qua đại dịch như tạm đóng cửa trại sản xuất, trại ương giống, nuôi mật độ thấp, hạn chế cho ăn và biện pháp tạm thời cuối cùng là cắt giảm nhân sự.
Hãy tự hào là người nuôi thủy sản. Trong ảnh là Ths Lê Anh Xuân với sản phẩm tôm sú nuôi trồng theo tiêu chuẩn GAP/CoC. Ảnh: NVCC.
Bằng cách làm theo những lời khuyên này và liên tục tìm cách cung cấp các sản phẩm an toàn và chất lượng cao cho những người cần chúng nhất, người nuôi có thể duy trì hoạt động kinh doanh đồng thời góp sức để cùng nhau vượt qua thử thách tự nhiên khắc nghiệt nhất trong một thế kỷ qua.
Five ways for fish farmers to survive Covid-19 by Jonah van Beijnen, Gregg Yan