Bioflocs và chất nền nhân tạo giảm tác động của mật độ cao đến tôm

Nghiên cứu mới đây vừa cho thấy vai trò của hệ thống biofloc có bổ sung chất nền nhân tạo trong nuôi tôm thẻ chân trắng.

Bioflocs và chất nền nhân tạo giúp giảm tác động mật độ cao đến tôm
Ảnh: australiaawardsindonesia

Công nghệ biofloc trong nuôi tôm

Mật độ thả ngày càng tăng đã đến tình trạng căng thẳng mãn tính chủ yếu do sự quá tải và suy giảm chất lượng nước ao. Tăng cường mật độ nuôi hiện là xu hướng toàn cầu trong ngành nuôi trồng thủy sản khi nhu cầu thủy sản thế giới tăng. Các hệ thống dựa trên công nghệ biofloc (BFT) đã được coi là sự thay thế hiệu quả và bền vững để nuôi các sinh vật dưới nước.  

Hình thái của các hạt floc dưới kính hiển vi. Ảnh: researchgate

Trong các hệ thống này, một cộng đồng các vi sinh vật dị dưỡng chủ yếu được kích thích phát triển bằng cách điều khiển tỷ lệ carbon/nitơ (C/N) trong nước và thêm một nguồn carbon hữu cơ bên ngoài (Avnimelech, 2007, 2012). Cộng đồng vi sinh vật này, cùng với tảo, động vật nguyên sinh, mảnh vụn và các hạt hữu cơ, hình thành các tập hợp gọi là "flocs" góp phần duy trì chất lượng nước tốt bằng cách hấp thụ amoni và ngăn ngừa sự tích tụ các hợp chất nitơ vô cơ độc hại.

Bioflocs cũng đóng vai trò là nguồn thức ăn bổ sung tại chỗ và có thể tác động tích cực đến hoạt động của enzyme tiêu hóa của tôm, cũng có thể góp phần vào việc tiêu hóa và sử dụng thức ăn. Trong các hệ thống như vậy, ít hoặc không có trao đổi nước nhằm giảm thiểu việc tiếp xúc với mầm bệnh và giúp chi phí sản xuất có lợi hơn.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei trong các hệ thống biofloc đã được cải thiện tỉ lệ sống sót và tăng trưởng, giảm tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và giúp phòng các bệnh do vi khuẩn (Ekasari et al., 2014).

Theo Thompson, Abreu & Wasielesky (2002) việc bổ sung chất nền nhân tạo trong ao nuôi làm tăng diện tích bề mặt cho các vi khuẩn dị dưỡng và nitrat hóa xâm chiếm, cung cấp khối lượng vi sinh vật nhiều hơn cho ao nuôi và cải thiện điều kiện chất lượng nước từ việc loại bỏ nitơ. Chất nền cung cấp nơi trú ẩn cho tôm để thoát khỏi các tương tác hành vi tiêu cực, đặc biệt là trong quá trình lột xác và giảm thiểu tác động tiêu cực của mật độ thả. Arnold, Coman, Jackson và Groves (2009) cũng chứng minh rằng sự tăng trưởng của tôm sú giống (Penaeus monodon) được cải thiện khi được nuôi trong các bể chứa vi sinh vật với chất nền nhân tạo.

Nghiên cứu này của Enrique Guemez‐Sorhouet và cộng sự 2018 đã so sánh 2 công nghệ nuôi tôm là cộng nghệ biofloc và nuôi tôm tuần hoàn nước sạch đến sự tăng trưởng của tôm nuôi và chất lượng nước.

Phương pháp nghiên cứu

Hai bể chứa polyetylen 1.000L được đặt ngoài trời và chứa đầy nước biển. Mỗi bể được thả với 35 con tôm thẻ trắng chưa trưởng thành (~ 4 g mỗi con) được cho ăn ba lần một ngày với 7% tổng sinh khối; Hỗn hợp 500 ml sản phẩm chế phẩm sinh học thương mại đã được thêm vào bể 2 ngày/lần để bổ sung vi khuẩn dị dưỡng và sinh vật hóa dưỡng vào hệ thống. Ngoài ra,  bột mì đã được thêm vào như là một tác nhân bổ sung. Để duy trì tỷ lệ C / N là 20: 1, mật mía (31% hàm lượng C) đã được thêm vào hàng ngày cho cả hai bể. Các tấm polyetylen (0,40 m × 0,25 m) được treo bên trong các bể chứa nước biofloc để cho phép phát triển sinh vật bám. Sau 15 ngày, nước biofloc đã được sử dụng để bổ sung vào các đơn vị thí nghiệm, và các chất nền nhân tạo được chuyển và đặt bên trong các đơn vị cần thiết. 

Tiến hành nghiên cứu

Ba mật độ thả (300, 600 và 900 PL/ m3) và điều kiện nuôi cấy trong 3 hệ thống(CW - nước trong; B - biofloc; và BS - biofloc với chất nền nhân tạo) mỗi nghiệm thức lặp lại ba lần. 

Tôm thẻ chân trắng L. vannamei ( trọng lượng 0,17 ± 0,03 g) và được nuôi với 9% tổng sinh khối với thức ăn viên thương mại có 35% protein thô, cho ăn ba lần mỗi ngày (9:00, 14:00 và 19:00 giờ). 

Kết quả:

Chất lượng nước tốt hơn đã được tìm thấy ở nghiệm thức nuôi tôm theo công nghệ biofloc B và BS mặc dù trao đổi nước là ít hơn so với công nghệ tuần hoàn nước sạch. 

Bioflocs có hiệu quả hơn để giảm thiểu tích lũy nitrite và nitrat trong các nghiệm thức ở mật độ 600 và 900 PL/m3 so với những nhóm 300 PL / m3. Những kết quả này cho thấy ở mật độ cao hơn, carbon hữu cơ bổ sung đảm bảo một cơ sở vi khuẩn dị dưỡng góp phần vào quá trình đồng hóa nitơ amoniac. Mức độ tổng hợp carbohydrate và glycogen cao hơn được quan sát thấy ở tôm được nuôi bằng bioflocs cho chúng khả năng đáp ứng với các điều kiện đòi hỏi năng lượng cao hơn.

Toàn bộ ‐ bột mì được sử dụng để thúc đẩy sự hình thành biofloc có thể đã ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng phân loại ban đầu của cộng đồng vi khuẩn có mặt trong hệ thống BFT như đã được quan sát bởi Vargas ‐ Albores et al. (2019) và Martínez Córdova và cộng sự (2018). 

Bioflocs thúc đẩy tăng trưởng tôm từ tuần thử nghiệm thứ hai cho tất cả mật độ thả PL được thử nghiệm. Đặc biệt, việc sử dụng biofloc và chất nền nhân tạo tạo ra trọng lượng và tốc độ tăng trưởng cuối cùng của tôm trong các nhóm 300 và 600 PL / m3 tương tự nhau và cao hơn hẳn so với 900 PL / m3. Các mô hình khác nhau đã được quan sát cho riêng B hoặc CW, cho thấy chất nền nhân tạo hoặc sức mạnh tổng hợp của biofloc và chất nền có thể làm giảm tác động bất lợi của mật độ cao đối với sự tăng trưởng của tôm, ít nhất là đối với kích cỡ tôm được sử dụng trong nghiên cứu này. 

Nghiên cứu này đã xác nhận rằng BFT cho phép duy trì chất lượng nước tốt khi mật độ thả PL cao được sử dụng. Đồng thời mô hình nuôi tôm theo công nghệ biofloc có chất nền nhân tạo giúp làm giảm hiệu ứng căng thẳng của việc nuôi ở mật độ cao biểu hiện bằng sự tăng trưởng cao hơn so với nhóm tôm được nuôi trong hệ thống tuần hoàn nước sạch CW. 

Enrique Guemez‐Sorhouet, Humberto Villarreal, Ilie S. Racotta, José Naranjo, Laurence Mercier 2018. DOI: 10.1111/are.13994

Đăng ngày 20/03/2019
VĂN THÁI (Lược dịch)
Kỹ thuật

Tổng quan về công nghệ MBBR trong nuôi trồng thủy sản

MBBR là Moving Bed Biofilm Reactor, hứa hẹn là công nghệ xử lý nước thải ưu việt trong nuôi trồng thủy sản.

công nghệ MBBR
• 18:17 25/09/2021

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP không chỉ loại bỏ hiệu quả nồng độ Ammonium mà còn xử lý đến 90% chất hữu cơ.

Chế biến cá tra
• 07:00 22/04/2020

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản bằng cảm biến nano

Sử dụng được cả trên bờ, dưới nước để quan trắc chất lượng nước, hệ thống cảm biến nano do Viện Công nghệ nano (INT) thuộc Đại học Quốc gia TPHCM nghiên cứu giúp người nuôi trồng thủy sản yên tâm khi chất lượng nước nuôi được cảnh báo tự động kịp thời khi có sự cố.

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản
• 14:35 05/02/2020

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ

Quản lý môi trường ao nuôi tôm nước lợ là khâu quan trọng, đòi hỏi người nuôi có sự hiểu biết cần thiết về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường và biến động của chúng.Từ đó, có biện pháp điều chỉnh phù hợp, giảm nguy cơ thiệt hại, góp phần vào thành công của vụ nuôi.

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ
• 08:46 30/10/2019

Phân biệt tôm yếu gan, teo gan và hoại tử: Nhìn cho đúng để cứu tôm kịp thời

Thời gian gần đây, các bệnh về gan tụy trên tôm bùng phát mạnh khiến nhiều hộ nuôi "đứng ngồi không yên". Điều đáng nói là ranh giới giữa tôm mới chớm yếu gan và bệnh hoại tử chết sớm rất mong manh.

Tôm
• 09:00 08/12/2025

Các biện pháp phòng, trị bệnh thủy sản nuôi trong mùa mưa bão

Mùa mưa bão gây nhiều biến động lớn đến môi trường nước trong ao, đầm và lồng bè nuôi thủy sản. Những thay đổi này làm gia tăng nguy cơ bùng phát các dịch bệnh, gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi.

Ao tôm
• 09:00 25/11/2025

Chuyển giao kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chình trong bể xi măng

Nhằm giúp người dân đa dạng hóa mô hình nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập và phát triển sinh kế bền vững.

Lớp tập huấn
• 09:44 03/11/2025

Viêm ruột trên tôm: Nguyên nhân và cách phòng trị

Viêm ruột là một trong những bệnh phổ biến trên tôm nuôi, làm suy giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng, khiến tôm ăn kém, chậm lớn, còi cọc, và dễ mắc các bệnh cơ hội khác. Nếu không kiểm soát kịp thời, bệnh có thể gây tỷ lệ hao hụt cao và thiệt hại kinh tế lớn cho người nuôi.

tôm thẻ
• 14:51 24/10/2025

Kịch bản xâm nhập mặn mùa khô 2026 và quy trình rửa mặn chủ động

Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đang bước vào giai đoạn chuẩn bị cho mùa khô 2026. Mặc dù dự báo xâm nhập mặn ở mức trung bình, nguy cơ tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, vẫn hiện hữu. Bà con cần lập kế hoạch sớm, tránh thiệt hại trắng ao và duy trì sinh kế bền vững.

Treo ao
• 05:05 17/12/2025

Quorum sensing là gì? Khi vi khuẩn phối hợp gây bệnh

Liệu vi khuẩn có khả năng “giao tiếp” và phối hợp hành động để hạ gục tôm chỉ sau một đêm? Hãy cùng khám phá cơ chế Quorum Sensing để giải hiện tượng này.

Tôm
• 05:05 17/12/2025

Tái cấu trúc ngành thủy sản từ tư duy kinh tế tuần hoàn

Đối mặt với nguồn lợi suy giảm, chi phí tăng cao và các yêu cầu khắt khe từ thị trường, ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước yêu cầu phải tái cấu trúc một cách toàn diện.

Tôm
• 05:05 17/12/2025

Cuộc cách mạng xanh với công nghệ lồng bè HDPE

Việt Nam đang tập trung phát triển nuôi biển như một mũi nhọn kinh tế và công cụ khẳng định chủ quyền, hướng đến một nền nghề cá hiện đại và bền vững.

Nuôi lồng bè
• 05:05 17/12/2025

Cơ hội vàng cho cá rô phi tại Việt Nam

Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với ngành nuôi cá rô phi tại Việt Nam. Sự biến động này không chỉ phản ánh sức hút ngày càng tăng của sản phẩm trên thị trường toàn cầu mà còn mở ra cơ hội sinh kế mới đầy triển vọng cho nông dân tại Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Cá rô phi
• 05:05 17/12/2025
Some text some message..