Theo đánh giá của Bộ NN và PTNT, sau 1 năm triển khai thực hiện, NĐ 36 đã có tác động tích cực củng cố và thúc đẩy phát triển ngành hàng cá tra. Quy hoạch tổng thể nuôi cá tra vùng ĐBSCL được rà soát, quy hoạch phù hợp với nhu cầu thị trường, nhiều vùng nuôi đã ứng dụng và được chứng nhận GAP hướng đến nuôi bền vững về chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường, liên kết trong nuôi, chế biến cá tra được hình thành và thúc đẩy rõ rệt hơn. Thông tin nuôi, chế biến và XK cá tra được cập nhật, chính xác và chi tiết hơn là cơ sở để quản lý và chỉ đạo sản xuất, tiêu thụ cá tra. Ngoài những kết quả đã đạt được sau 1 năm thực hiện NĐ 36, Bộ NN và PTNT cũng báo cáo Thủ tướng Chính phủ về một số hạn chế, khó khăn.
Lùi thời hạn áp dụng một số quy định về điều kiện nuôi, chất lượng ATVSTP
Theo khoản 5, Điều 4 của NĐ 36 thì: “Đến ngày 31/12/2015, các cơ sở nuôi cá Tra thương phẩm phải áp dụng và được chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt theo VietGAP hoặc chứng chỉ quốc tế phù hợp quy định của pháp luật Việt Nam”.
Nhưng đến nay mới có gần 50% diện tích nuôi cá tra ứng dụng và được chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt - GAP do một số tỉnh chậm hoàn thành việc rà soát, phê duyệt quy hoạch chi tiết nuôi, chế biến cá tra ở địa phương nên ảnh hưởng đến tiến độ cấp mã số ao nuôi, xác nhận đăng ký nuôi cá tra thương phẩm, ứng dụng và chứng nhận quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP). Đồng thời cũng gây khó khăn cho việc quản lý diện tích nuôi, sản lượng nuôi cá tra trong toàn vùng và ảnh hưởng đến hiệu quả xác nhận đăng ký hợp đồng XK cá tra.
Bộ NN và PTNT cho rằng, cần thêm thời gian để các cơ sở nuôi áp dụng và được chứng nhận GAP. Do đó, Bộ đề xuất Thủ tướng Chính phủ sửa đổi quy định tại khoản 5, Điều 4 của NĐ 36: Lùi thời gian các cơ sở nuôi cá tra thương phẩm phải áp dụng và được chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt VietGAP hoặc các chứng nhận quốc tế tương đương đến ngày 31/12/2016.
Theo điểm b và c, khoản 6, Điều 6 của NĐ 36 thì: Điều kiện về CL, ATVSTP đối với sản phẩm cá tra chế biến là: “Tỷ lệ mạ băng (tỷ lệ nước mạ băng trên trọng lượng tổng) đối với sản phẩm cá Tra xuất khẩu phải phù hợp với quy định của nước nhập khẩu. Các trường hợp khác tỷ lệ mạ băng không được vượt quá 10% và Hàm lượng nước tối đa không được vượt quá 83% so với khối lượng tịnh (khối lượng cá tra phi lê sau khi loại bỏ lớp mạ băng) của sản phẩm”.
Tuy nhiên, sau đó VASEP và các DN chế biến, XK cá tra đã kiến nghị Bộ NN và PTNT xem xét lại quy định này sao cho phù hợp với thực tế và không gây khó khăn về thị trường và hoạt động XK. Bộ NN và PTNT đã chỉ đạo Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD) tiến hành nghiên cứu bổ sung và tổ chức Hội đồng nghiệm thu độc lập để đánh giá, kết quả nghiên cứu có đủ cơ sở khoa học và thực hiện việc quy định tỷ lệ hàm ẩm 83% là có khoa học.
Nhưng các DN chế biến, XK cá tra đang sản xuất, XK các sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh có hàm lượng nước từ 83-89%, mạ băng từ 10-30%. Theo kết quả điều tra (tháng 4-5/2015) của Bộ NN và PTNT sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh sản xuất tại 26 DN có hàm lượng nước ≤83% chỉ chiếm 3,03%, trong khi sản phẩm có hàm lượng nước >86% chiếm tới 75,32%. Sảm phẩm phi lê cá tra có tỷ lệ mạ băng ≤10% chiếm 49,35%, sản phẩm có tỷ lệ mạ băng >20% chiếm 16,02%.
Việc các DN sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh có hàm lượng nước, tỷ lệ mạ băng khác nhau đáp ứng yêu cầu của các nhà NK ở các thị trường khác nhau nhưng những sản phẩm có hàm lượng nước và tỷ lệ mạ băng quá cao sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng, uy tín của sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh.
Sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh có hàm lượng nước tối đa ≤83% và tỷ lệ mạ băng ≤10% có chất lượng cao nhưng giá thành sản xuất cao hơn các sản phẩm có hàm lượng nước và tỷ lệ mạ băng lớn, đòi hỏi giá XK phải cao hơn nhưng hiện tại lại khó khăn về quy mô thị trường XK. Thị trường XK sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh có hàm lượng nước, tỷ lệ mạ băng theo quy định của NĐ 36 còn tương đối nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10% thị phần XK các sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh. Do đó, quy định chỉ được phép sản xuất sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh có hàm lượng nước ≤83% và tỷ lệ mạ băng ≤10% đã gây khó khăn trong việc tiêu thụ, XK cá tra.
Do đó, Bộ NN và PTNT đề xuất: Giữ nguyên quy định tại điểm b, c Khoản 3, Điều 6 NĐ 36 và đề nghị Chính phủ giao cho Bộ NN và PTNT hướng dẫn lộ trình thực hiện theo hướng: Đến ngày 31/12/2018: sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh XK có tỷ lệ mạ băng ≤20%; hàm lượng nước tối đa ≤86% so với khối lượng tịnh của sản phẩm. Từ ngày 01/01/2019: áp dụng đầy đủ quy định như tại điểm b, c Khoản 3, Điều 6 NĐ 36.
Đăng ký hợp đồng XK cá tra không là điều kiện thông quan
Theo quy định, các tổ chức, cá nhân phải đăng ký hợp đồng XK cá tra và Cơ quan Hải quan chỉ chấp nhận thông quan đối với những lô hàng của hợp đồng XK sản phẩm cá tra đã được Hiệp hội cá Tra Việt nam xác nhận đã được đánh giá khác nhau. Hiệp hội Chế biến và XK Thủy sản Việt Nam (VASEP), UBND các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang kiến nghị bỏ quy định này vì cho rằng việc đăng ký hợp đồng XK cá tra chỉ phát sinh thủ tục hành chính, tăng chi phí của DN, đưa sản phẩm cá tra XK đang kiểm soát theo chế độ hải quan luồng xanh sang luồng vàng (chỉ thông quan sau khi đã kiểm tra hồ sơ).
Đăng ký hợp đồng XK là khâu kiểm soát cuối cùng trong quá trình tổ chức, quản lý ngành theo chuỗi giá trị, quản lý chất lượng sản phẩm từ nuôi đến chế biến và XK, kiểm soát thực hiện quy hoạch, cân đối cung cầu giữa sản lượng cá nuôi và chế biến tiêu thụ (thông qua việc cấp mã số nhận diện ao nuôi và đăng ký nuôi cá tra thương phẩm), hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong XK cá tra. Thông qua đăng ký XK hệ thống thông tin phục vụ quản lý sản xuất, chế biến, XK cá tra được cập nhật, hoàn thiện. Việc tiếp tục duy trì đăng ký hợp đồng XK là cần thiết.
Tuy nhiên, quán triệt tinh thần của Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thông thoáng cho các DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Bộ NN và PTNT đề xuất sửa đổi đăng ký hợp đồng XK sản phẩm cá tra không là điều kiện để cơ quan hải quan chấp nhận thông quan, ứng dụng CNTT trong đăng ký XK và bỏ thu phí của DN khi đăng ký hợp đồng XK sản phẩm cá tra.
Khi đăng ký hợp đồng XK sản phẩm cá tra không là điều kiện để cơ quan hải quan chấp nhận thông quan, để đảm bảo quản lý chất lượng sản phẩm cá tra từ nuôi đến chế biến, XK, kiểm soát thực hiện quy hoạch, cân đối cung cầu giữa sản lượng cá nuôi và chế biến tiêu thụ, cần thiết bổ sung các quy định về chế độ báo cáo, kiểm tra, giám sát theo hình thức hậu kiểm tại các cơ sở nuôi, chế biến và XK cá tra.
Ngày 25/9/2015, Văn phòng Chính phủ đã gửi Công văn số 7678/VPCP - KTN tới Bộ NN và PTNT nêu ý kiến Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đồng ý việc xây dựng, ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 36/2014/NĐ-CP (NĐ 36) ngày 29/4/2014 của Chính phủ về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra áp dụng theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Tại công văn này, Phó Thủ tướng lưu ý, Bộ NN và PTNT trong quá trình soạn thảo, chủ trì nghiên cứu, tổng hợp, tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, cơ quan liên quan, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Nghị định sửa đổi, bổ sung theo quy định; tập trung vào các vấn đề: các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp khi triển khai Nghị định 36; sự cần thiết phải áp dụng VietGAP hoặc chứng chỉ quốc tế (khoản 5 Điều 4 NĐ 36); cân nhắc thay thế quy định về hàm lượng nước tối đa và tỷ lệ mạ băng (khoản 3 Điều 6 NĐ 36) bằng cơ chế doanh nghiệp tự công khai thông tin về thành phần, chất lượng sản phẩm; xem xét việc tiếp tục áp dụng thủ tục đăng ký, xác nhận hợp đồng xuất khẩu cá tra (khoản 2 Điều 7 và Điều 8 Nghị định 36).