Lời nhận xét đó quả không sai. Khác với chình ở biển con to xương nhiều và nặng ký, chình sống ở suối cũng giống da trơn thân dài nhưng con nhỏ hơn. Trung bình mỗi con bằng bắp tay người lớn, nặng từ 1,5 - 2kg, tuy nhiên cũng có những con to đến 3kg. Những con này hiếm gặp nhưng thịt ngon béo cực kỳ.
Căn cứ vào màu da mà người ta chia chình suối ra thành nhiều loại như chình bông, chình mun, chình nghệ... Trong đó, chình có da màu vàng như nghệ cho thịt thơm ngon nhất.
Loài đặc sản da trơn này làm được nhiều món ngon truyền thống như nấu cà ri, kho, nướng, nấu cháo, um, hấp. Mỗi món có một cách nấu và một vị ngon riêng. Trong đó, món chình nướng dễ chế biến và có thể làm bất cứ nơi đâu.
Một cái lạ và cũng là kinh nghiệm của nhiều người là thịt chình suối ăn tươi không ngon bằng phơi héo. Vì thế, nhiều người khi đánh bắt được chình, họ đem phơi nắng một thời gian ngắn cho lớp da héo đi, thịt teo lại và hơi bị ươn ươn thì nướng mới ngon. Làm kiểu này khi ăn sẽ cảm nhận được vị béo thơm của thịt chình.
Con chình cắt ra thành nhiều khúc, lọc lấy thịt từng miếng cỡ bằng ba bốn ngón tay rồi ướp với gia vị. Chủ yếu là muối ớt và sả, càng đơn giản càng ngon vì nếu ướp với nhiều gia vị thì sẽ mất đi mùi đặc trưng của chình và vì thế thịt chình sẽ không ngon bằng giữ mùi vị nguyên chất.
Thịt chình chế biến xong đợi một thời gian ngắn rồi đem nướng vỉ trên lửa than. Đặc điểm là con chình suối ít xương giăm, thịt nhiều mỡ nên khi nướng tỏa mùi thơm phức. Khi chín, từng miếng thịt chình trở màu vàng ươm, săn lại rất thơm ngon. Ăn món chình nướng lúc nóng cần những thức kèm theo như muối chấm, rau thơm sẽ có nhiều cảm giác ngon lạ hơn so với các món nướng khác.
Ngày xưa, chình sống ở suối còn rất nhiều nên nó là món ngon thường niên của nhiều người ở quê. Ngày nay nhắc đến chình suối, hình như khơi gợi một món ngon chỉ còn trong ký ức...