Nguyên liệu để nấu tô canh chua cá mú - Ảnh: Trần Cao Duyên
Làng ven biển nên nhiều khi chẳng cần đi chợ, chỉ vài chục ngàn đồng trong túi, xuống bến dạo một lát là có ngay mấy con cá mú tươi ròng. Nửa kg cá mú khoảng 25.000 đồng, đủ nấu nồi canh cho một gia đình 4 miệng ăn.
Sau khi đã làm sạch cá, cắt ra thành 2 hoặc 3 khúc tùy cá lớn hay nhỏ. Dùng một ít muối hầm ướp cá khoảng 10 phút để khi tao dầu, lát cá săn cứng, không bị giập nát.
Nấu sôi khoảng 1 lít nước và thả lá giang, thơm, cà chua, khế, me vào. Cho cá vào khi nước sôi lại. Hỗn hợp các chất chua sẽ khử hết mùi tanh của cá. Thả rau thơm, ngũ điếc, giá và vài lát ớt vào sau cùng. Nêm nếm cho vừa miệng. Hương vị nồi canh - một thứ “ngôn ngữ ẩm thực” - bay ra đầu ngõ là lời mời hấp dẫn khiến ta nghe bụng dạ cồn cào.
Chan canh vào chén, nước canh dìu từng miếng cơm vào bụng một cách trơn tru. Thịt cá mú trắng phau, giống thịt gà ở độ dai nhưng ăn đứt thịt gà ở độ thơm và ngọt. Để chấm cá mú, dân biển miền Trung thường dùng đũa dằm trái ớt sừng vào chén mắm, không giã nhỏ, cũng không cho thêm chanh, tỏi, đường vì sợ làm mất đi chất “nguyên sơ” của mắm. Gắp miếng cá mú chấm vào chén mắm ớt giản dị đó, chưa đưa lên miệng đã nghe lưỡi tràn trề cảm xúc.
Nhai miếng cá và nhâm nhi đũa rau để “điểm danh” từng vị chua lại càng thấy khoái. Cái chua của cà là chua thanh, của khế là chua dịu, của thơm là chua ngọt, của lá giang là chua chát và của me là chua lành. Không thể làm “phép cộng” giản đơn cho các vị chua bởi đó là sự kết hợp hài hòa và tinh tế của các loài rau quả.
Cá mú - “nhân vật chính” của nồi canh - trở nên đậm đà hơn, “bản sắc” hơn nhờ tắm trong hỗn hợp các vị chua ấy. Và dĩ nhiên nồi canh trở nên “sang” hơn là nhờ sự góp hương của rau thơm, của ngũ điếc, giá đỗ xanh và “biến tấu” của những lát ớt cay nồng.
Vợ nấu cơm chiều. Nghe mùi thơm của món ruột, chồng liền chìa bát tới và thường được vợ “duyệt chi”. Mấy anh em hàng xóm ngồi với nhau khề khà bên cút rượu con con. Tô canh chua cá mú lúc này được “tôn vinh” là món đưa cay hảo hạng.