Độ mặn trong công nghệ biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng

Mục đích của nghiên cứu này là so sánh độ mặn trong các hệ thông biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng nhằm tìm ra độ mặn thấp nhất giảm chi phí cho các mô hình nuôi tôm trong nội địa cách xa đất liền.

Độ mặn trong công nghệ biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng
Mô hình nuôi tôm theo công nghệ biofloc được thử nghiệm với 3 độ mặn khác nhau.

Các hệ thống sử dụng công nghệ biofloc có tỉ lệ thay nước thấp, giảm hoặc loại bỏ ô nhiễm từ nước thải, cải thiện đáng kể an toàn sinh học, và có thể có thể được xây dựng trong đất liền, cách xa bờ biển, ở vùng đất có chi phí thấp hơn và gần với các khu đô thị lớn, nơi có nhu cầu tôm tươi rất lớn. Tuy nhiên chi phí nước biển nhập khẩu hoặc muối biển nhân tạo là một chi phí đáng kể trong các hệ thống nội địa, do đó mô hình nuôi tôm ở các hệ thống có độ mặn thấp nhất có thể để tối ưu hóa hiệu quả tài chính.

Điểm đồng áp suất thẩm thấu isosmotic cho tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương được báo cáo là ở độ mặn 24,7‰. Tuy nhiên các tài liệu kỹ thuật mâu thuẫn về tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương bị giảm ở độ mặn dưới điểm isosmotic và một số nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sống của tôm ở các độ mặn khác nhau.

Mặc dù tôm thẻ chân trắng đã được sản xuất tại Hoa Kỳ - chủ yếu ở các ao ngoài trời và mật độ thả tương đối thấp từ 10 đến 40 con/m3 ở độ mặn từ 1 đến 15 ‰ như: Alabama, Arizona, Florida và Texas, nhưng không có đủ thông tin về sản xuất tôm quy mô thương mại trong các hệ thống biofloc thâm canh ở độ mặn thấp hoặc trung bình.

Bài báo này được điều chỉnh và tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Nuôi trồng thủy sản 476 (2017) 29-36), so sánh chất lượng nước và sản lượng tôm trong một cơ sở nuôi tôm theo công nghệ biofloc và ở ba độ mặn khác nhau.

So sánh 3 độ mặn trong hệ thống nuôi tôm theo công nghệ biofloc

Tôm thẻ chân trắng PL8 được thả với mật độ 4.000 con tôm/m3 vào ngày 30/1 tại mương 3,2 mét nằm trong các cấu trúc nhà kính hình vòm được bao phủ bằng nhựa trong. Do nuôi tôm ở Mỹ trong mùa đông nên phải sử dụng nồi hơi để kiểm soát nhiệt độ nước. Hệ thống nồi hơi trung tâm duy trì nhiệt độ nước ở 29 độ C.

Tôm Post lần đầu được nuôi trong một bể ươm trong 54 ngày ở độ mặn 25 ‰, với sucrose - loại đường được tách ra chủ yếu từ mía đường hay củ cải đường - được bổ sung định kỳ để tăng tỷ lệ C: N và khuyến khích đồng hóa vi khuẩn dị dưỡng của amoniac trên cơ sở cần thiết. Tôm ban đầu được cho ăn (trong 16 ngày đầu tiên của ao ươm) với artemia sp mới nở và sau đó tôm được cho ăn với thức ăn thương mại ở các kích cỡ khác nhau tùy theo cỡ của tôm. Trong giai đoạn ươm, tôm được cho ăn dựa trên một phần trăm sinh khối tôm giả định, bắt đầu từ 15% sinh khối và giảm dần xuống 8,8%.

Trọng lượng tôm được lấy mẫu vào cuối giai đoạn ươm và có cân nặng 1,22 ± 0,02 gram. Tôm sau đó được đếm theo trọng lượng và 12.500 con tôm được thả vào mỗi mương trong 9 bể sản xuất, giống như bể được sử dụng cho giai đoạn vườn ươm nhưng thêm máy sục khí vào để tăng oxy và thúc đẩy tuần hoàn nước. 9 mương này được phân ngẫu nhiên vào các phương pháp xử lý độ mặn khác nhau:

  • Độ mặn thấp (10 ‰) (LS),
  • Độ mặn trung bình (20 ‰) (MS)
  • Độ mặn cao (30 ‰) (HS).

Mỗi bể nuôi nhận được cùng một lượng thức ăn ở mỗi lần cho ăn. Trọng lượng tôm được ước tính một lần mỗi tuần bằng cách cân 5 nhóm 10 con tôm từ mỗi mương, và các con tôm được nuôi thử nghiệm trong 8 tuần.


Thu hoạch tôm trong thử nghiệm.

Các chỉ số sản xuất tôm từ nghiên cứu này nhìn chung ở mức chấp nhận về mặt thương mại, bất kể các giá trị độ mặn. Một hiện tượng tôm chết ở một trong các mương LS dẫn đến sản lượng tôm thấp hơn trong chế độ ăn ở đó. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể trong bất kỳ chỉ số sản xuất tôm nào giữa các độ mặn. Tốc độ tăng trưởng cao và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp, và hình thức bên ngoài của tôm thu hoạch tốt.

Các mức độ mặn trong mương được ổn định trong suốt nghiên cứu và có sự khác biệt đáng kể giữa các độ mặn. Nồng độ của các ion chính tương ứng với độ mặn, nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa giá trị canxi và kali của độ mặn cao và thấp. Về pH, nó cao hơn đáng kể trong độ mặn thấp 10‰, tiếp theo là 20 ‰ và sau đó là độ mặn 30 ‰.

Nồng độ oxy hòa tan (DO) tương đối ổn định và được duy trì ở mức cao để đảm bảo nó không đạt đến mức độ gây căng thẳng. Có sự khác biệt đáng kể giữa các độ mặn liên quan đến nồng độ DO buổi sáng: HS> MS> LS; và có sự khác biệt đáng kể về mức độ DO giữa các độ mặn LS và MS và giữa các độ mặn HS và MS: HS, LS> MS.

Nồng độ chất rắn lắng đọng cao hơn đáng kể trong độ mặn 30‰ so với độ mặn 10‰ . Không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ amoniac và chỉ số BOD (mức độ ô nhiễm bởi các chất hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học) giữa 3 độ mặn.

Nghiên cứu này cho thấy ba độ mặn 10‰, 20‰, 30‰ có sản lượng tôm tương đương trong các hệ thống biofloc quy mô thương mại do đó sẽ tiết kiệm đáng kể nước biển bằng cách nuôi tôm biển ở độ mặn thấp 10‰. Khi xem xét giá muối biển nhân tạo cho bất kỳ cơ sở nuôi trồng thủy sản nào nằm cách xa đại dương, các khoản tiết kiệm nước này thể hiện sự tiết kiệm chi phí trực tiếp. Tỷ lệ thay nước thấp trong nghiên cứu này cũng giúp giảm lượng nước biển sử dụng và bảo vệ cho việc nuôi tôm trong đất liền.

Đăng ngày 21/09/2018
Global Aquaculture Alliance. April 16, 2018
Kỹ thuật

Tổng quan về công nghệ MBBR trong nuôi trồng thủy sản

MBBR là Moving Bed Biofilm Reactor, hứa hẹn là công nghệ xử lý nước thải ưu việt trong nuôi trồng thủy sản.

công nghệ MBBR
• 18:17 25/09/2021

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP không chỉ loại bỏ hiệu quả nồng độ Ammonium mà còn xử lý đến 90% chất hữu cơ.

Chế biến cá tra
• 07:00 22/04/2020

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản bằng cảm biến nano

Sử dụng được cả trên bờ, dưới nước để quan trắc chất lượng nước, hệ thống cảm biến nano do Viện Công nghệ nano (INT) thuộc Đại học Quốc gia TPHCM nghiên cứu giúp người nuôi trồng thủy sản yên tâm khi chất lượng nước nuôi được cảnh báo tự động kịp thời khi có sự cố.

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản
• 14:35 05/02/2020

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ

Quản lý môi trường ao nuôi tôm nước lợ là khâu quan trọng, đòi hỏi người nuôi có sự hiểu biết cần thiết về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường và biến động của chúng.Từ đó, có biện pháp điều chỉnh phù hợp, giảm nguy cơ thiệt hại, góp phần vào thành công của vụ nuôi.

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ
• 08:46 30/10/2019

Phân biệt tôm yếu gan, teo gan và hoại tử: Nhìn cho đúng để cứu tôm kịp thời

Thời gian gần đây, các bệnh về gan tụy trên tôm bùng phát mạnh khiến nhiều hộ nuôi "đứng ngồi không yên". Điều đáng nói là ranh giới giữa tôm mới chớm yếu gan và bệnh hoại tử chết sớm rất mong manh.

Tôm
• 09:00 08/12/2025

Các biện pháp phòng, trị bệnh thủy sản nuôi trong mùa mưa bão

Mùa mưa bão gây nhiều biến động lớn đến môi trường nước trong ao, đầm và lồng bè nuôi thủy sản. Những thay đổi này làm gia tăng nguy cơ bùng phát các dịch bệnh, gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi.

Ao tôm
• 09:00 25/11/2025

Chuyển giao kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chình trong bể xi măng

Nhằm giúp người dân đa dạng hóa mô hình nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập và phát triển sinh kế bền vững.

Lớp tập huấn
• 09:44 03/11/2025

Viêm ruột trên tôm: Nguyên nhân và cách phòng trị

Viêm ruột là một trong những bệnh phổ biến trên tôm nuôi, làm suy giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng, khiến tôm ăn kém, chậm lớn, còi cọc, và dễ mắc các bệnh cơ hội khác. Nếu không kiểm soát kịp thời, bệnh có thể gây tỷ lệ hao hụt cao và thiệt hại kinh tế lớn cho người nuôi.

tôm thẻ
• 14:51 24/10/2025

Novaland bất ngờ lấn sân sang thủy sản

Thông qua công ty con là Địa ốc Ngân Hiệp, Tập đoàn Novaland vừa chính thức nắm giữ hơn 24% vốn tại Tổng công ty Thủy sản Việt Nam (Seaprodex). Động thái này được xem là bước đi chiến lược nhằm đa dạng hóa hệ sinh thái kinh doanh bên cạnh lĩnh vực cốt lõi là bất động sản.

Seaprodex
• 02:32 01/01/2026

Tại sao vỏ tôm không chứa nhiều canxi như chúng ta lầm tưởng?

Từ trước đến nay, nhiều người vẫn tin rằng vỏ tôm là bộ phận chứa nhiều canxi nhất và việc ăn cả vỏ sẽ giúp bổ sung khoáng chất này cho cơ thể. Tuy nhiên, dưới góc nhìn khoa học, đây là một quan niệm chưa chính xác.

Vỏ tôm
• 02:32 01/01/2026

Xu hướng nuôi ruồi lính đen làm thức ăn thủy sản

Giá bột cá tăng phi mã đang bào mòn lợi nhuận của người nuôi tôm cá. Trong bối cảnh đó, mô hình nuôi ruồi lính đen nổi lên như một giải pháp đột phá, hứa hẹn vừa giảm chi phí thức ăn, vừa giải quyết bài toán môi trường theo hướng kinh tế tuần hoàn.

Ruồi lính đen
• 02:32 01/01/2026

Thói quen tiêu thụ tôm tại thị trường phương Đông và phương Tây

Sự khác biệt trong cách ăn tôm không đơn thuần là khẩu vị, mà phản ánh hai triết lý văn hóa ẩm thực đối lập giữa phương Đông và phương Tây – từ việc ăn đầu tôm, giữ vỏ, rút chỉ lưng cho đến cách chế biến và thưởng thức.

Món tôm
• 02:32 01/01/2026

Gia Lai chuyển đổi nghề, giải bản tàu cá: Giải pháp căn cơ cho sinh kế ngư dân

Trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, yêu cầu quản lý nghề cá ngày một chặt chẽ, việc bảo đảm sinh kế ổn định cho ngư dân đang trở thành thách thức lớn đối với các địa phương ven biển.

Vận chuyển cá
• 02:32 01/01/2026
Some text some message..