Mưu sinh trên miệng “thủy thần”
Con đò chèo tròng trành theo từng cơn sóng nhẹ đưa chúng tôi qua xóm nghèo ven cồn Phó Ba. Vào mùa lũ ai cũng quay quần trên chiếc ghe vá lưới, trét lại đôi be ghe cho kín để hành nghề lặn sông. Tại cồn Phó Ba hầu như cả xóm sống bằng nghề thợ lặn, với khoảng 40 người. Ghé thăm gia đình anh Thái Văn Phải (48 tuổi), một thợ lặn “cừ” ở miền sông nước Mỹ Hòa Hưng, anh nói: “Lớn tuổi rồi, sức khỏe yếu nên cũng ít lặn sông. Bây giờ, toàn bộ ghe xuồng, máy lặn đều trao lại cho 2 thằng con trai. Đời thợ lặn mấy ai giàu có. Cái nghèo cứ đeo bám mãi. Đời cha làm thợ lặn thì đời con cũng bám lấy cái nghiệp bạt bẽo này…”.
Ngày trước, anh Phải từng là một thợ lặn khét tiếng ở cồn Phó Ba. Mỗi khi mùa nước nổi về, ghe xuồng bị chìm bất cứ ở đâu, hễ anh hay được là đến nơi trục vớt cho bà con. Ngoài ra, khi ai đó có người thân bị chết đuối nước, anh Phải cũng ra tay nghĩa hiệp lặn tìm xác giúp mà không lấy một xu. Nhưng khi kể cho chúng tôi nghe về khoảng thời gian còn trai tráng, sức khỏe sung mãn, mỗi ngày lặn cả chục hơi, vậy mà anh còn phải rùng mình trước cái nghề hạ bạc này. “Hồi ấy, cá mắm nhiều vô số, nhất là thời điểm nước rút tháng 10, mỗi ngày lặn chụp chài vài chục ký cá ngát, cá leo, cá trèn, cá kết bạc theo những voi vịnh trên sông, trung bình cũng kiếm từ 300.000-400.000 đồng. Còn nay thì dân số ngày càng tăng, dân nghèo khai thác cá mắm bằng xung điện quá mức nên sản lượng cá đã giảm dần. Thấy vậy chứ lặn sông sâu đánh bắt cá có khi cũng phải đánh liều mạng sống như chơi, nhất là ở những chỗ sông sâu, nước chảy xiết”, anh Phải ngán ngẫm.
Đã hơn 30 năm trong nghề thợ lặn, anh Phải biết rất rành rọt những chỗ sâu cạn, chỗ có bãi bồi trên khúc sông Hậu. Thế nhưng, chỗ sâu nhất ở đoạn sông Hậu mà anh từng lặn và ngán ngại nhất là khu vực phà An Hòa và đầu cồn Phó Ba có độ sâu khoảng 30 mét nước. Hồi ấy, khu vực này sông sâu nước chảy xiết, cá tôm trú ẩn nhiều vô kể. Mỗi lần anh chụp chài dính vài ký tôm là chuyện thường. Khúc sông này sâu nên phải lặn bằng máy hơi. Hôm rồi, một chiếc xà lan chở cát khoảng 500 khối bị chìm tại đây, nhóm thợ lặn của anh Phải đến trục vớt mất cả tuần mới đưa được chiếc xà lan lên mặt nước. Anh Phải nhớ lại lần trục vớt kinh hoàng này: “Cũng hôm ấy, những tưởng thằng em vợ tôi là Lâm Văn Thạnh mắc kẹt lại vĩnh viễn dưới chiếc xà lan rồi! Chiều tối hôm đó, nó lặn xuống bơm nước khoan hầm sau chiếc xà lan ra thì bất ngờ chiếc xà lan nổi lên úp ngược lại làm nó kẹt trong khoan hầm. Anh em trên ghe phụ trách chạy máy muốn chết điếng. Nhưng do có kinh nghiệm, nó lần từ từ ra khỏi khoan xà lan và ngoi lên mặt nước. Đây chỉ là một trong những trường hợp nguy hiểm, đời thợ lặn nghiệt ngã lắm chú em ơi…”.
Nghề cha truyền con nối
Từ khi gắn bó với cái nghiệp thợ lặn, anh Phải đã gặp sự cố và ra máu mũi cả chục lần, có những lần suýt mất mạng trên sông. Hiện nay, sức khỏe yếu, nên anh Phải đã truyền lại cái nghiệp thợ lặn cho hai đứa con trai lớn. Anh bồi hồi kể lại: “Quê gốc ở Cần Đăng, lấy vợ về cồn Phó Ba ở. Thấy ông già vợ có biệt tài lặn giỏi và là người đầu tiên đem cái nghề lặn này từ Biển Hồ về nên ai cũng biết tiếng. Lúc mới về đây sống, không nghề nghiệp ổn định, ông già vợ mới truyền lại cho cái nghề này. Sau cái năm ổng mất, tôi quyết định nối nghiệp và mưu sinh bằng cái nghề thợ lặn cho đến nay.
Thời còn trai tráng, tôi lặn sâu khoảng 30 mét nước và trầm mình nhiều giờ liền dưới sông sâu. Đặc biệt, vào mùa nước nổi về, nước chảy cuồn cuộn, tôi vẫn bạo gan trục vớt ghe tàu chìm trên sông Hậu nếu ai có nhu cầu. Nghề thợ lặn đòi hỏi sức khỏe tốt thì mới chịu đựng được sức ép của nước ở độ sâu lạnh giá. Có lần tôi bị cảm nhẹ, cố gắng đi chụp chài dưới sông sâu để bắt cá lớn, tưởng lướt qua được, nào ngờ lặn chỉ khoảng 15 phút thì cảm thấy trong mình lạnh cóng. Biết là chẳng lành, tôi ngoi đầu lẹ lên mặt nước thì máu mũi chảy ra ròng ròng. Lúc này, thằng con trai lớn mới phân sợi dây kéo tôi lên xuồng chở đi bệnh viện, mất cả tuần mới hồi phục sức khỏe…”.
Cái nghề thợ lặn được dân trong nghề ví von như nghề “đâm hà bá”. Ngày nào còn làm thì có tiền đong gạo, còn hôm nào nghỉ lặn gác mái giầm thì coi như đói. Dân thợ lặn mong muốn được đổi đời có chỗ ở và việc làm ổn định. Họ cũng sợ bệnh tật chết bất đắc dĩ trên sông, nhưng không có đất sản xuất phải bám víu cái nghiệp thợ lặn để sống. Nhiều gia đình thợ lặn, con em đều ít học. Khi lớn lên, các con cũng nối theo cái nghiệp của cha chúng. Chia tay xóm thợ lặn khi nhiều gia đình đã bắt đầu lục tục xuống ghe phân lưới, cuộn tròn ống dây hơi để chuẩn bị ra sông kiếm cá. Sống trong cái vòng lẩn quẩn ấy, những xóm nghề thợ lặn bao giờ mới thoát khỏi phận mình?