Đến dự buổi hội thảo có bà Ngô Hồng Điệp - Phó Phó Trưởng Trạm Khuyến ngư vùng Hạ, ông Nguyễn Kim Sơn – Khuyến nông viên xã Tân Ân, ông Dương Ngọc Hùng – Khuyến nông viên xã Tân Chánh cùng hơn 20 nông dân tham dự.
Với nguồn kinh phí của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Đước các hộ tham gia thực hiện mô hình được nhận 50% con giống, 30% chế phẩm sinh học, còn lại vốn đối ứng đóng góp của người dân, cùng với sự hướng dẫn kỹ thuật của các cán bộ tại Trạm Khuyến ngư vùng Hạ - Trung tâm thủy sản.
Hộ Huỳnh Bảo Quốc ở ấp 4, xã Tân Ân, huyên Cần Đước và hộ bà Phạm Thị Phụng ở ấp Đình, xã Tân Chánh, huyện Cần Đước đã tiến hành thả nuôi trình diễn trên tổng diện tích 3000m2/ hộ. Trong đó, hộ ông Huỳnh Bảo Quốc thả 250.000 con giống với mật độ 83con/m2 do độ sâu đạt chuẩn 1-8-2 m; kích cỡ giống Post 12 của trại giống Ba Giàu; hộ bà Phạm Thị Phụng thả 80.000 con giống với mật độ 40con/m2, kích cỡ giống là Post 12 của trại giống An Tài. Sau 3 tháng nuôi, năng suất của các hộ ông Huỳnh Bảo Quốc đạt bình quân 4,6 tấn /ha, tỷ lệ sống 70%; ước tính lãi trung bình 70 triệu đồng. Riêng hộ bà Phạm Thị Phụng thì do tôm bị đốm trắng 2 đợt nên năng suất không cao; sau khi trừ chi phí chỉ hoà vốn.
Tại hội thảo, Cán bộ kỹ thuật theo dõi mô hình - bà Ngô Hồng Điệp đã báo cáo quá trình thực hiện mô hình, kết quả, rủi ro của mô hình và những kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện mô hình và giải đáp những thắc mắc giúp bà con hiểu rõ hơn về kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng an toàn sinh học. Chị cho biết: “hiện nay để đạt được năng suất cao trong sản xuất, hàng loạt các sản phẩm như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, kim loại nặng,... từ rất nhiều thương hiệu được bà con sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, việc lạm dụng quá mức những sản phẩm này có thể tồn lưu trong các thực phẩm và để lại những ảnh hưởng nguy hại đến sức khỏe con người, thậm chí có thể dẫn đến tử vong. Chính vì vậy, qua áp dụng mô hình đã giúp bà con hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc nuôi tôm theo hướng an toàn sinh học, an toàn vệ sinh thực phẩm.Thêm một lợi ích khác nữa là việc ghi chép đầy đủ các thông tin chế độ ăn , loại thức ăn, thuốc thú y, thuỷ sản hoá chất dùng trong suốt quá trình nuôi sẽ giúp cho sản phẩm tôm thẻ của người nuôi thực hiên được việc cung cấp thông tin truy xuất nguồn gốc, tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường. Đây là mô hình sản xuất thân thiện với môi trường, ít sử dụng thuốc kháng sinh, chất hóa học, tạo ra sản phẩm sạch có lợi cho sức khỏe con người và cho hiệu quả kép về kinh tế và môi trường. Sở dĩ năng suất hộ bà Phạm Thị Phụng nuôi không đạt yêu cầu, nguyên nhân là do người nuôi không thực hiện việc rào lưới hoặc giăng dây để chống còng cọc hoặc các loại chim cò trong quá trình nuôi nên dẫn viếc việc lây lan bệnh đốm trắng từ những ao bị đốm trăng xung quanh sang ao nuôi của mình. Ngoài ra, trong suốt quá trình nuôi hộ bà Phụng không duy trì oxy đầy đủ và thường xuyên nên tôm dễ bị bệnh và bị sốc, chính vì vậy ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và năng suất của tôm.”
Từ những hiệu quả thiết thực mà mô hình trình diễn mang lại, người dân đã có thể mạnh dạn lựa chọn mô hình nuôi tôm theo hướng sinh học để áp dụng vào sản xuất tại nông hộ, qua đó,tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn vê sinh an toàn thực phẩm, có tính cạnh tranh và giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi.