I. THIẾT KẾ VÀ XÂY DỰNG LỒNG NUÔI
- Lồng có kích thước 75 m3 (5m x 5m x 3m), chiều cao mức nước lưới lồng để thả nuôi từ 2,5 m; trên các mặt của thành lồng có lớp lưới chắn cao 0,5 m để ngăn thức ăn trôi ra ngoài.
- Dùng loại vật liệu bằng thép hay gỗ để làm khung lồng. Tùy vào điều kiện kinh tế và quy mô đầu tư của mỗi hộ mà thiết kế khung lồng nuôi cho phù hợp, nên thiết kế khung lồng có 4, 8 hoặc 12 ô lồng và dành riêng 1 - 2 ô lồng để làm nhà sinh hoạt và kho chứa thức ăn, vật dụng.
- Toàn bộ khung lồng được nâng bằng thùng phuy sắt hoặc nhựa 200 lít và được cố định vào khung lồng bằng dây thép, khung lồng được cố định bằng dây neo ở 4 góc.
- Lồng làm bằng lưới polyetylen (PE) dệt không co rút. Cỡ mắt lưới phụ thuộc vào kích cỡ cá nuôi, cỡ mắt lưới từ 1 - 4 cm, trong một vụ nuôi thường sử dụng 3 loại mắt lưới; đáy lưới lồng được cố định bằng dây giềng nối với đá ghiềm hoặc các can nhựa chứa cát.
Một cụm lồng gồm các bộ phận chính: Khung lồng, lưới lồng, phao, dây neo, neo, đá ghiềm... và được thiết kế cụ thể như sau:
1. Khung lồng
Khung lồng nuôi cá có thể làm bằng các nguyên liệu sau: Bằng sắt hoặc băng gỗ. Đối với miền núi có thể tận dụng các nguyên liệu gỗ có sẵn tại địa phương để giảm chi phí làm lồng. Tùy vào điều kiện kinh tế và quy mô đầu tư của mỗi hộ mà thiết kế khung lồng nuôi cho phù hợp. Với cá Diêu hồng, Rô phi nên thiết kế khung lồng có 4, 8 hoặc 12 lồng và dành riêng 1 - 2 ô lồng để làm nhà sinh hoạt và kho chứa thức ăn, những ô còn lại dùng để nuôi.
Đối với khung lồng bằng tiếp sắt
a/ Vật liệu:
Toàn bộ khung lồng làm bằng ống tiếp sắt Φ34 (hoặc Φ42, Φ49) có mạ lớp kẽm chống rỉ, mỗi cây dài 6m và ống nối sắt Φ34.
b/ Thiết kế khung lồng:
Khung lồng có kích thước 24 x 12m, gồm 2 dãy mỗi dãy 5 ô để mắt lưới lồng nuôi, mỗi ô kích thước 4,5 x 4m hoặc khung lồng có kích thước 18 x 18m, gồm 3 dãy, mỗi dãy 3 ô để mắt lưới lồng nuôi, mỗi ô kích thước 5 x 5m.
Các tiếp sắt Φ34, mỗi cây có chiều dài 6m được nối thẳng với nhau bằng ồng nối Φ34. Toàn bộ các tiếp sắt dọc và ngang được hàn gắn chặt với nhau tạo thành khung lồng.
2. Lồng lưới
Lồng lưới có dạng hình hộp lập phương hoặc hình chữ nhật có 1 mặt đáy, 4 mặt bên, mặt để hở gọi là miệng lồng.
Lồng làm bằng lưới polyetylen (PE) dệt không co rút. Cỡ mắt lưới phụ thuộc vào kích cỡ cá lúc thả thường (2a) = 1 - 4cm, trong một vụ nuôi thường ta sử dụng 3 loại mắt lưới: Ban đầu chọn mắt lưới có kích thước (2a) =1cm, kích thước thứ 2: 2a = 2,5 cm, kích thước thứ 3: 2a = 4cm, đáy lưới lồng được cố định bằng dây giềng nối với đá ghiềm hoặc các can nhựa chứa cát.
Thông thường lồng sử dụng để nuôi cá rô phi, cá diêu hồng trên hồ chứa sử dụng lồng có kích thước vừa và nhỏ.
Ở Quảng Nam, thường làm lồng nuôi cá có kích thước 75 m3 (5 x 5 x 3 m), chiều sâu mức nước thả nuôi là 2,5 m.
Tất cả các lồng dù thiết kế bằng vật liệu gì trên các mặt của thành lồng đều có lớp lưới chắn cao 0,5 m để ngăn thức ăn trôi ra ngoài.
3. Phao nâng lồng
Dùng tấm xốp có kích thước 50 x 60 x 90 cm, thùng phi sắt hoặc phi nhựa 200lít. Để đảm bảo sức nổi của lồng, bố trí mỗi ô lồng từ 4 – 6 phao, phao được cố định vào khung lồng bằng dây thép.
Lắp cụm lồng:
- Đặt các phi song song, khoảng cách các phao bằng khoảng cách lồng lưới.
- Dùng khung lồng đã hàn sẵn đặt lên phao, gắn phao vào khung lồng bằng dây thép.
- Khi lắp khung cụm lồng đặt trên bờ sau đó chuyển xuống nước để lắp lồng lưới.
- Trên cụm lồng lắp nhà bảo vệ diện tích bằng 1 đến 2 ô lồng.
II. CHỌN ĐỊA ĐIỂM ĐẶT LỒNG
Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như nuôi trong các thủy vực ao hồ mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp để neo lồng bè sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của vụ nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi dựa trên các yếu tố như: Nhiệt độ, mức độ nhiễm bẩn của nguồn nước, vật chất lơ lửng, sinh vật gây bệnh, trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; độ sâu, chất đáy, giá thể; và điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã hội,... Đảm bảo theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá lồng bè, đảm bảo an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường theo QCVN 02-22:2015/BNNPTNT. Một vị trí tốt cho việc nuôi cá lồng trên trên sông và hồ chứa nước thủy lợi, thủy điện phải đảm bảo các yêu cầu:
- Chọn vị trí đặt lồng/bè nuôi phải nằm trong vùng quy hoạch để phát triển nuôi trồng thủy sản hoặc phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Chọn khu vực hạ lưu hồ chứa, xa đập tràn. bến tập kết gỗ,…
- Chọn nơi thông thoáng, khuất gió, nước sâu hơn 4m tại thời điểm mực nước hồ xuống thấp nhất, lưu thông nước tốt, lưu tốc dòng chảy 0,2 - 0,3m/s. Không nên nuôi ở các điểm cuối eo ngách.
- Vị trí đặt lồng cách bờ ít nhất 15 - 20m.
- Môi trường nuôi phải đảm bảo các yếu tố sau: pH 6,5 - 8,5; oxy hoà tan > 5 mg/lít; NH3 nhỏ hơn 0,01 mg/lít; H2S < 0,01 mg/lít, nhiệt độ nước từ 20 - 33oC.
Ở hồ chứa mỗi cụm bố trí từ 10 – 15 lồng, các cụm lồng cách nhau từ 200 - 300m, đặt so le nhau. Tại hồ chứa tổng diện tích lồng, bè không quá 0,2% diện tích khu vực đặt lồng. Cụ thể là 1ha mặt thoáng hồ chứa chỉ được nuôi 1 lồng.
Lưu ý đối với các hồ chứa nước thủy lợi (nguồn nước không dùng cho mục đích sinh hoạt) phải có diện tích mặt nước dâng bình thường từ 50ha trở lên.
III. KỸ THUẬT NUÔI
1. Chọn giống và thả giống
- Cá giống có nguồn gốc rõ ràng, phải được mua từ các cơ sở có kiểm soát chất lượng cá bố mẹ, cá giống và quá trình sản xuất giống.
- Nên mua giống ở các cơ sở tin cậy, có uy tín.
- Cá giống khỏe mạnh, không dị hình, không xây xát, kích cỡ đồng đều…; phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch. Chỉ nuôi các đối tượng được phép nuôi theo quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Kích cỡ cá giống nuôi trong lồng yêu cầu phải có kích cỡ lớn, tốt nhất từ 8 - 12cm. Cá giống được ương nuôi trong ao hoặc lồng riêng cho đến khi đạt kích thước trên mới đưa ra lồng nuôi thương phẩm.
Mật độ thả nuôi lồng các loại cá nước ngọt như sau:
+ Cá diêu hồng, rô phi: 100 con/m3 (kích cỡ ≥ 8 cm/con).
+ Cá trắm cỏ: 20 - 30 con/m3 (kích cỡ ≥ 12 cm/con).
+ Cá lóc: 130 con/m3 (≥ 8 cm/con).
+ Cá lăng nha, thát lát cườm: 50 - 60 con/m3 (≥ 8 cm/con).
+ Cá tra: 40 - 50 con/m3 (≥ 8 cm/con).
- Mùa vụ thả giống: Thời gian thả giống từ cuối tháng 12 năm trước hoặc đầu tháng 01 năm sau và kết thúc vụ nuôi vào cuối tháng 9 hàng năm để tránh thiệt hại do mưa bão, lũ.
Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi thả cá cần cân bằng môi trường bằng cách ngâm bao chứa cá vào lồng nuôi trong thời gian 10 - 15 phút, sau đó cho nước từ từ vào miệng túi và tiến hành thả cá.
2. Thức ăn và chế độ cho ăn
- Tùy từng loại cá nuôi, có thể sử dụng thức ăn công nghiệp, tự chế biến hoặc thức ăn tươi.
- Thức ăn công nghiệp được phép lưu hành tại Việt Nam; đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng theo quy định; không sử dụng thức ăn đã hết hạn sử dụng.
- Đối với thức ăn tự chế biến: Có đủ thành phần dinh dưỡng; nguyên liệu để chế biến không có Salmonella, nấm mốc độc (Aspergilus flavus), độc tố aflatoxin; không chứa kháng sinh, hóa chất cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản.
- Thức ăn tươi: Đảm bảo tươi, không dập nát và thức ăn được rửa sạch, cắt khúc tùy theo kích cỡ của cá nuôi, cá ăn hết sau khi cho ăn từ 15 - 30 phút.
- Tùy từng loại cá nuôi và giai đoạn phát triển của cá, cho cá ăn thức ăn phù hợp về chủng loại, kích cỡ và cân đối lượng thức ăn cho cá theo trọng lượng, sức khỏe cá và môi trường nuôi; cho ăn 2 lần/ngày (sáng sớm và chiều mát).
Thức ăn sử dụng cho cá nuôi lồng bè hiện nay chủ yếu là thức ăn công nghiệp. Dùng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi và không tan trong nước sẽ hạn chế sự thất thoát thức ăn và giảm thiểu ô nhiễm nước. Thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm ≥ 20%.
Việc cho cá ăn khá đơn giản khi nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi. Tuy nhiên, lồng phải có màng chắn để ngăn thức ăn không cho trôi ra ngoài lồng. Màng chắn thức ăn làm bằng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn kích thước của viên thức ăn. Thức ăn được chia đều làm 2- 3 lần cho cá ăn vào lúc sáng (6-7 h) và chiều (17-18h). Cho cá ăn đúng giờ để tạo phản xạ cho cá.
Ngoài ra, có thể dùng thức ăn tự chế biến cho cá ăn để giảm chi phí. Chế biến thức ăn cho cá nhằm đạt hiểu quả trong quá trình nuôi, cần phải nắm vững nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cá, đặc biệt là nhu cầu dinh dưỡng từng giai đoạn phát triển của chúng. Việc sử dụng các thành phần nguyên liệu có hàm lượng tinh bột nhiều như cám, tấm, sắn/mì phải ở mức độ vừa phải tùy theo nhu cầu sử dụng của cá, dùng quá nhiều cá sẽ không tiêu hóa hết lượng thức ăn, gây ô nhiễm môi trường nuôi. Ngoài ra trong quá trình chế biến thức ăn nên bổ sung thêm vitamin C để tăng sức đề kháng, vitamin nên được bổ sung vào lúc thức ăn để nguội để tránh tình trạng bị phân hủy do nhiệt.
Một vài công thức phối trộn thức ăn (chỉ bao gồm các thành phần chính):
(*) Có thể thay thế bột cá bằng cá tạp theo tỷ lệ lượng cá tạp = lượng bột cá x 4
Các thành phần nguyên liệu trên được xay nhỏ, trộn đều và nấu chín, dùng máy xay đùn thành sợi dài sau đó cắt nhỏ thành viên có kích cỡ vừa miệng cá. Thức ăn sau khi ép viên xong có thể hong khô bảo quản để cho ăn dần hoặc cho ăn ngay. Khi cho ăn nên đặt thức ăn vào nhá để dễ theo dõi, quản lý lượng thức ăn hàng ngày.
Hoặc Cám 30% + 10% thóc nghiền + 20% đỗ tương + 30% bột ngô + 10% bột cá.
Hỗn hợp thức ăn tự chế biến được trộn theo công thức trên đã nấu chín, đùn viên hoặc để nguội nắm thành bánh cho cá ăn. Đưa thức ăn xuống lồng thành nhiều đợt để tất cả cá nuôi trong lồng đều được ăn. Cho cá ăn từ từ, ít một để cá ăn hết thức ăn, tránh không để cá tranh ăn, làm tan thức ăn, rơi ra ngoài lồng gây thất thoát thức ăn và ô nhiễm nước.
Nếu cho cá ăn bằng thức ăn tự chế hoặc thức ăn dạng viên chìm phải dùng lưới cước có mắt lưới dày để làm mặt đáy lồng nuôi cá nhằm giữ cho thức ăn không lọt qua đáy lồng rơi xuống đáy sông, hồ.
Cho cá ăn với khẩu phần từ 2 - 7% trọng lượng thân tùy vào loại thức ăn và trọng lượng cá nuôi.
Cần giảm lượng thức ăn khi cá có hiện tượng bắt mồi kém hay thời tiết thay đổi.
Trong quá trình nuôi cần theo dõi tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chu kỳ kiểm tra tăng trưởng là 15 ngày/1lần trên cơ sở đó ước lượng được khối lượng cá trong lồng từ đó điều chỉnh lượng thức ăn cho cá.
Quan sát hoạt động bắt mồi của cá và mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Vớt thức ăn cũ còn thừa trong lồng trước khi cho thức ăn mới.
Không cho cá ăn thức ăn bị mốc hay ôi thiu, quá hạn sử dụng sẽ dễ gây ngộ độc cho cá.
3. Quản lý lồng nuôi và chăm sóc cá nuôi
- Tiến hành vệ sinh lồng sạch, phơi lồng trong nắng gắt từ 3 - 5 ngày để tiêu diệt tất cả mầm bệnh bám vào lưới, kiểm tra lưới đảm bảo an toàn trước khi thả cá ương nuôi.
Trước khi thả cá và sau mỗi vụ nuôi, thu hoạch cá xong, đưa lồng lên cạn (nếu có điều kiện) dùng vôi hoặc Chlorin 30ppm phun lên lồng, sau đó phơi nắng.
Trong quá trình nuôi, mỗi tuần vệ sinh lồng ít nhất một lần, dùng bàn chải nhựa cọ sạch các cạnh bên trong và ngoài lồng lưới, loại bỏ rác trôi nổi và các vật cứng bám vào cụm lồng nuôi. Tiến hành làm vệ sinh lồng trước các bữa ăn của cá.
- Trong quá trình nuôi cá lồng, cần chú ý thường xuyên thay lưới lồng có mắt lưới phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cá; cần chuẩn bị các loại lưới ương, lưới nuôi cá các cỡ để sang thưa cá; vừa đảm bảo vệ sinh lồng, kiểm tra số lượng cá và tạo môi trường thông thoáng cho cá phát triển.
- Chú ý chọn loại lưới không gút làm lồng để giảm ma sát từ lưới va chạm vào cá, tránh các bệnh lở loét, trầy xước trên cá nuôi, dễ vệ sinh lồng và hạn chế sinh vật bám vào lưới.
- Định kỳ bổ sung vitamin C, khoáng chất, men tiêu hóa vào thức ăn với liều lượng 5 - 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục 5 - 7 ngày để tăng sức đề kháng cho cá và thường xuyên treo các túi vôi ở 4 góc lồng để phòng bệnh cho cá.
- Cần kiểm tra hàng ngày khả năng bắt mồi của cá và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, tránh dư thừa gây lãng phí và ô nhiễm môi trường nước. Nếu cá có dấu hiệu bỏ ăn, ăn ít hoặc dấu hiệu bệnh cần tìm hiểu nguyên nhân, đánh giá sơ bộ để có biện pháp phòng, trị phù hợp đối với từng loại bệnh như: bệnh do ký sinh trùng, do nấm, do vi khuẩn, virus hay do ký sinh trùng.
- Khi cá nuôi có dấu hiệu bất thường, các hộ nuôi cần báo cho cán bộ thý y xã/phường hoặc cán bộ thú y cấp huyện, cấp tỉnh để xác định nguyên nhân và hướng dẫn biện pháp xử lý kịp thời.
- Khi xảy ra dịch bệnh cần cách ly lồng đến vị trí an toàn và tiến hành phòng bệnh cho cá. Trường hợp cá nuôi bị bệnh nặng và có khả năng lây lan nhanh, phải tiến hành thu hoạch cá (nếu đã đạt kích cỡ thương phẩm).
- Thường xuyên kiểm tra lồng, phát hiện các vết rách, rạn nứt để kịp thời khắc phục; loại bỏ rác trôi nổi và các vật cứng vào khu vực lồng/bè nuôi. Các hộ nuôi phải có phương án neo giữ lồng bè hoặc di chuyển lồng bè vào nơi an toàn khi có bão lũ xảy ra và nước chảy xiết.
4. Thu hoạch và tính hiệu quả kinh tế
4.1. Thu hoạch
Sau 4- 5 tháng nuôi kiểm tra khi cá đạt kích cỡ thương phẩm (500- 600 gam/con) thu hoạch toàn bộ hoặc có thể tiến hành thu tỉa cá lớn, tiếp tục nuôi các cá nhỏ hơn và đến cuối vụ thu hoạch toàn bộ.
Trước khi thu hoạch giảm cho cá ăn 2 - 3 ngày và ngày cuối cùng ngừng cho ăn.
Dùng lưới thu từ từ cho đến hết, thu trong thời gian ngắn sẽ giảm tỷ lệ hao hụt.
Sản phẩm có thể được tiêu thụ ngay tại địa phương hay chuyển các tỉnh lân cận.
Thống kê toàn bộ sản lượng cá thu hoạch về số lượng, trọng lượng và tổng giá trị thu được để tính toán hiệu quả kinh tế và rút kinh nghiệm cho vụ nuôi sau.
4.2. Tính hiệu quả kinh tế
Trong sản xuất thủy sản nói chung và nuôi cá nói riêng đều phải tính đến hiệu quả kinh tế cho vụ nuôi sau khi thu hoạch nhằm phân tích, rút kinh nghiệm cho những vụ nuôi tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Muốn tính hiệu quả kinh tế thì phải tính được tổng chi phí trong quá trình nuôi và tổng doanh thu thu được sau khi thu hoạch.
Hiệu quả = Tổng thu – Tổng chi
* Phần chi gồm:
- Tiền làm lồng (trừ dần vào tiền khấu hao tài sản sau mỗi vụ nuôi).
- Tiền mua cá giống.
- Tiền mua các loại thức ăn cho cá.
- Tiền mua vật tư, thuốc, hóa chất phòng, trị bệnh.
- Tiền điện, nhiên liệu đi lại, vận chuyển thức ăn, vật tư, cá từ bờ ra lồng và ngược lại.
- Tiền công chăm sóc, quản lý.
- Tiền công thu hoạch và các chi phí khác (nếu có).
* Phần thu:
Tổng sản lượng cá thu hoạch x giá bán tại từng thời điểm.