Vai trò
Việc gây mê giúp đảm bảo thành công, nâng cao tỷ lệ sống trong quá trình vận chuyển, tiêm thuốc, vuốt trứng… Ngoài ra, trong một số trường hợp, việc nhúng cá vào chất gây mê rồi chuyển cá sang thiết bị vận chuyển còn có tác dụng giữ cho cá được đẹp, không bị bong tróc vẩy hay trầy xước. Khi gây mê, người nuôi cần xem xét và dựa vào một số tiêu chuẩn như: Độ an toàn cho người thao tác và cho người sử dụng tôm, cá làm thực phẩm; Tỷ lệ sống sau vận chuyển, tình trạng sức khỏe cá sau vận chuyển; Chi phí sử dụng; Khả năng thay đổi màu sắc, mùi vị cơ thịt cá bị chết trong quá trình vận chuyển.
Chuẩn bị
Người nuôi cần mang găng tay sạch và thấm ướt khi thực hiện, rửa sạch bột từ găng tay nếu có. Trong suốt quá trình thực hiện, cá cần được giữ ướt.
Không cho cá ăn trong 12 - 24 giờ trước khi gây mê để bảo đảm dạ dày hoàn toàn trống. Khi bắt cá, chú ý giữ tay luôn ướt và thao tác nhẹ nhàng sao cho không làm trầy xước da cá.
Kiểm tra và duy trì các thông số môi trường (nhiệt độ, pH, độ mặn, ôxy hòa tan…) ở bể (xô, chậu) xử lý giống với môi trường nước nuôi để tránh gây sốc cho cá. Nhiệt độ không được chênh lệch quá 20C. Vệ sinh bể sạch sẽ, loại bỏ các chất cặn bẩn. Phần lớn chất gây mê có tính axit làm giảm pH của môi trường, trong thường hợp này, người nuôi có thể sử dụng muối đệm như sodium bicarbonate (NaHCO3) để điều chỉnh pH đến mức phù hợp. Bố trí sục khí liên tục nhằm duy trì hàm lượng ôxy hòa tan trong môi trường nước.
Thuốc gây mê lý tưởng để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản phải đáp ứng các yêu cầu như không độc với thủy sản và người sử dụng, an toàn với môi trường, tác dụng gây mê nhanh. Chất gây mê phải chuyển hóa hoặc bài tiết nhanh, thời gian phân hủy ngắn, không để lại tồn dư hoặc tồn dư không đáng kể trong các mô của cơ thể. Dựa vào các tiêu chí nêu trên, hiện nay tại Mỹ và các nước châu Âu chỉ cho phép sử dụng duy nhất loại thuốc Tricaine methanesulphonate (còn có các tên gọi khác như Metacaine, Tricaine, MS 222, Finquel, TMS) để gây mê cho cá dùng làm thực phẩm cho người. Đây là loại thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới với độ an toàn cao cho nhiều loài cá và tôm.
Gây mê và theo dõi
Để gây mê theo phương pháp tắm, trước hết cần hòa tan thuốc gây mê vào nước, sau đó thả cá vào. Chất gây mê sẽ xâm nhập qua tơ mang cá trong hô hấp, hòa vào máu và chuyển lên não, tác dụng làm cho cá chuyển trạng thái mê. Khi đó, cá sẽ hoạt động chậm lại, sau đó mất cân bằng và không phản ứng khi bị bắt giữ, đụng chạm.
Liều gây mê cần phù hợp với mục đích và loài khác nhau. Chẳng hạn như MS 222 có thể gây mê cho cá rô phi ở liều 50 g/m3 nước sau vài chục giây nhưng để gây mê tôm càng xanh thì phải dùng ở liều rất cao là 280 g/m3 sau 30 phút. Liều sử dụng cho cá bố mẹ thấp hơn so với cá con, bởi cá bố mẹ có độ béo cao sẽ giữ lại chất gây mê lâu hơn, từ đó phân hủy chậm và gây tác dụng dài. Lưu ý, khi vận chuyển trong thời gian dài, chỉ nên sử dụng liều thấp. Để bảo đảm quản lý được tác dụng của chất gây mê, không nên gây mê khi tổng khối lượng cá vượt quá 80 g/lít (80 kg/m3).
Trong quá trình thao tác, cần quan sát kỹ trạng thái của cá để xử lý kịp thời nếu có sự cố.
5 mức độ biểu hiện của quá trình gây mê cho cá. Ảnh: Bayer.
Quá trình phục hồi
Trong quá trình phục hồi, sự đảo ngược các giai đoạn gây mê sẽ xảy ra với quá trình gia tăng dần sự vận động, trạng thái cân bằng và hoạt động bơi lội bình thường.
Hầu hết cá được phục hồi hoàn toàn từ các chất gây mê ngâm trong vòng 5 phút sau khi đặt trong nước ngọt. Thời gian hồi sức kéo dài (> 10 phút) cho biết chiều sâu gây mê quá mức hoặc động vật bị tổn hại. Khi cá được đưa vào môi trường nước sạch mới, thuốc mê bị bài thải hết, cá sẽ dần trở lại trạng thái bình thường. Do đó, ngay sau khi hoàn thành các thao tác cần chuyển cá sang bể nước sạch để hồi sức càng nhanh càng tốt. Bể hồi sức cần có nước sạch và đảm bảo thông số môi trường như bể gây mê, duy trì sục khí liên tục. Sau khi hồi sức, chuyển cá về ao nuôi.