Một số bệnh tôm mới hoặc mới nổi lên ở châu Á gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng ở các trang trại nuôi tôm, bao gồm cả bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) hay còn gọi là Hội chứng tử vong sớm (EMS), bệnh do vi bào tử trùng (HPM), Bệnh ký sinh trùng gan tụy (HPH), bệnh ký sinh trùng vermiform (ATM) và bệnh tôm chết bí ẩn (CMD). Thêm vào đó là các bệnh do virus như bệnh đốm trắng (WSD), bệnh đầu vàng (YHD) và hoại tử cơ (IMN) tiếp tục gây nên tổn thất nghiên trọng cho ngành tôm(Thitamadee et al., 2016).
Gần đây, các trang trại nuôi tôm ở châu Á và các khu vực khác đã được báo cáo nhiễm nặng ký sinh trùng microsporidian, Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) trong nuôi tôm thẻ chân trắng L. vannamei tác động đến sản xuất do bệnh làm tôm chậm phát triển nghiêm trọng (Newman, 2015).
Nhiễm vi bào tử trùng (Hepatopancreatic microsporidiosis) gây ra bởi Enterocytozoon hepatopenaei (EHP). Sự bùng phát EHP xảy ra rộng rãi ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan.
So với AHPND, rất ít cảnh báo cáo ảnh hưởng do khó nhận biết bất thường trong tháng nuôi đầu tiên. Tôm nuôi do nhiễm vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP). Bệnh EHP đầu tiên được phát hiện trên Paraeus monodon và sau đó được báo cáo ngày càng tăng ở Ấn Độ, trầm trọng hơn do lũ lụt. Điều được biết đến là EHP chỉ xâm nhiễm vào các tế bào biểu mô ống tụy ở gan tụy tôm. Các bào tử rất nhỏ (1.1 x 0.60-0.07μm).
Sự suy dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng trong ao nuôi tôm vì nhiều lý do khác nhau bao gồm cả EHP đã tạo ra sự nhầm lẫn giữa dẫn đến nông dân không thể thu hoạch mặc dù không có tính khả thi về kinh tế để tiếp tục nuôi với tôm còi cọc.
Trong nghiên cứu này, các mẫu tôm từ các ao nuôi tôm khác nhau từ các khu vực khác nhau của huyện SPSR Nellore, Andhra Pradesh, Ấn Độ, đã được thu thập trong khoảng thời gian 5 tháng (tháng 2 năm 2016 đến tháng 6 năm 2016). Quan sát chẩn đoán quan trọng là các nghiên cứu mô bệnh học, kỹ thuật phân tử (PCR).
Hình 1. Sự thoái hóa và hoại tử của ống gan tụy H & E, x100 .
Hình 2. Các bào tử EHP có mặt trong tế bào chất H & E, x400.
Hình 3: Các giai đoạn phát triển của EHP (dấu sao) H & E, x400.
Hình 4: Thể vùi basophilic (mũi tên), bào tử của EHP ( dấu sao; H & E, x400).
Hình 5: EHP bào tử (dấu sao), bao gồm thể vùi ưa kiềm (mũi tên) H & E, x400
Hình 6: Giai đoạn phát triển của bào tử EHP (sao) và tách rời ống lumen (mũi tên) H & E, x400)
Hình 7: Sự mở rộng của khoang mạch máu trong khoảng không liên ống( dấu sao) và bào tử EHP (mũi tên)
Hình 8: Phần mô bị nhiễm EHP (H & E, x400)
Xét nghiệm mô bào học cho thấy: phần gan tụy bị hoại tử nặng được quan sát thấy (hình 1). Và các bào tử của EHP cũng đã được quan sát thấy trong tế bào chất. Các thể vùi và bào tử cũng hiện diện trong biểu mô hình ống (Hình 4, 5). Những giai đoạn này chủ yếu được nhìn thấy ở phần đầu của ống gan tụy và hầu hết các biểu mô hình ống trong khu vực này cho thấy sự tách rời khỏi màng nền (Hình 5,6). Phần cơ bản của biểu mô hình ống cho thấy vật liệu dạng hạt và cấu trúc giống bào tử. Trong một số phần, các bào tử được nhận thấy trong các cấu trúc không có cấu trúc. Sự sụt giảm của các tế bào biểu mô hình ống và sự tập hợp các bào tử lớn đã được nhận thấy trong ống lumen.
Ở gan tụy, số lượng lớn tế bào vi khuẩn hình que cũng được nhận thấy trong ống lumen cho thấy tôm bị nhiễm trùng thứ phát sau khi vi bào tử trùng xâm nhập. Và từ kết quả phân tích các nhà khoa học cũng cho rằng rằng EHP có thể được phát hiện từ tôm bị chậm tăng trưởng và bị bệnh phân trắng WFS như tuyên bố được đưa ra bởi Rajendran và cộng sự, (2016).
Xem báo cáo gốc trên: https://doi.org/10.20546/ijcmas.2018.703.131