Một số hướng nghiên cứu gen và ứng dụng công nghệ sản xuất tôm giống

Tôm giống ngày càng nổi bật vị trí trọng yếu trong chuỗi sản xuất bền vững và các chuyên gia ở Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ cho biết một số nghiên cứu gen và ứng dụng công nghệ để sản xuất tôm giống có kết quả rất tốt.

Tôm giống
Phát triển sản xuất giống tôm sú theo hướng an toàn sinh học

Tập hợp bộ gen của tôm sú liên quan đến tăng trưởng

PGS.TS Dương Thúy Yên giới thiệu nghiên cứu “Tập hợp bộ gen của tôm sú (Penaeus monodon) ở cấp độ nhiễm sắc thể tạo điều kiện xác định các gen liên quan đến tăng trưởng”.

Tôm sú (Penaeus monodon) là một trong những loài giáp xác được nuôi phổ biến với sản lượng trung bình hàng năm (tính trong mười năm qua) trên toàn cầu khoảng 500.000 tấn, chiếm 9% tổng sản lượng giáp xác. Nghề nuôi tôm sú phát triển nhưng sản lượng không ổn định do thiếu kiến ​​thức về sinh học và di truyền để cải thiện những đặc điểm mong muốn như tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, thành thục sinh sản để không phụ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ tự nhiên. 

Trước đây, những nghiên cứu trên bộ gen của tôm sú chưa có sự liên tục và hoàn chỉnh cần thiết để chú thích bộ gen chính xác do tính chất lặp lại cao của bộ gen và khó khăn về kỹ thuật trong việc sàng lọc DNA có trọng lượng phân tử cao và chất lượng cao. 

Uengwetwanit et al. vào năm 2021, lần đầu tiên báo cáo kết quả về sự tập hợp thành công toàn bộ bộ gen chất lượng cao ở cấp độ nhiễm sắc thể của tôm sú thông qua việc sử dụng kết hợp công nghệ “long-read Pacific Biosciences” (PacBio) và “long-range Chicago và Hi-C”. Bộ gen tập hợp bao phủ 2,39 Gb (chiếm 92,3% kích thước bộ gen ước tính) và chứa 44 nhiễm sắc thể đơn bội. Các đoạn DNA lặp lại (Repetitive DNA) chiếm phần lớn (62,5%) trong bộ gen, tỉ lệ này đạt cao nhất so với các loài giáp xác khác. Bộ gen tập hợp chất lượng cao này cho phép xác định các gen liên quan đến tốc độ tăng trưởng nhanh ở tôm sú thông qua việc so sánh bộ phiên mã (transcriptome, là tập hợp các mRNA) gan tụy của tôm sinh trưởng chậm và tôm lớn nhanh. 

Kết quả đã xác định được một số gen liên quan đến tăng trưởng. Bộ gen chất lượng cao này cung cấp nguồn thông tin có giá trị để cải thiện di truyền và chọn giống tôm sú nói riêng và nhóm tôm biển (họ Penaeidae) nói chung. Bên cạnh đó, bộ gen của tôm sú còn được dùng trong các nghiên cứu về tác động sinh thái, khả năng tiến hóa và thích nghi của tôm, góp phần vào sự phát triển bền vững nghề nuôi tôm.

Cần nói thêm, cải thiện di truyền động vật nuôi thủy sản (cá, giáp xác) thông qua chọn lọc có sự hỗ trợ của chỉ thị phân tử và chọn lọc dựa trên bộ gen đang là hướng mới trong di truyền chọn giống hiện nay, mang lại lợi ích to lớn cho sự phát triển bền vững của nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, đến nay chỉ một số ít loài giáp xác nuôi đã được nghiên cứu bộ gen hoàn chỉnh, trong đó có tôm sú.

Chọn lọc dựa trên bộ gen giúp tôm thẻ kháng WSSV

Cũng theo PGS.TS Dương Thúy Yên, nghiên cứu “Chọn lọc dựa trên bộ gen đối với tính kháng vi rút gây hội chứng đốm trắng (WSSV) ở tôm thẻ chân trắng giúp tăng tỷ lệ sống trong thí nghiệm cảm nhiễm” cho kết quả tiềm năng lớn cải thiện chất lượng giống.

Tôm giống thẻ chân trắngNghiên cứu tập trung vào việc chọn lọc dựa trên bộ gen đối với tính kháng vi rút gây bệnh WSSV ở tôm thẻ chân trắng

Nghiên cứu tập trung vào việc chọn lọc dựa trên bộ gen đối với tính kháng vi rút gây bệnh WSSV ở tôm thẻ chân trắng. Vi rút gây WSSV gây ra thiệt hại lớn cho ngành nuôi tôm trên toàn thế giới và một giải pháp để quản lý dịch bệnh này là chọn lọc đàn tôm kháng bệnh. Tuy nhiên, hệ số di truyền đối với tính kháng WSSV nói chung là thấp, do đó, cải thiện di truyền bằng phương pháp chọn lọc thông thường có kết quả thấp và mất nhiều thời gian.

Nghiên cứu được thiết kế nhằm đánh giá mức độ hiệu quả và độ chính xác của phương pháp chọn lọc dựa trên bộ gen để cải thiện tính kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng. Thí nghiệm cảm nhiễm với WSSV được thực hiện (ở giai đoạn tôm giống 3g) và sức đề kháng của tôm được đánh giá dựa trên tình trạng chết hoặc sống (DOA) tại thời điểm 23 ngày sau khi gây cảm nhiễm. Tất cả tôm trong thí nghiệm cảm nhiễm đều được phân tích xác định 18.643 đa hình nucleotide đơn (gọi là SNP). Các SNP này được xác định trước đó khi phân tích và so sánh bộ gen của 2 dòng kháng và mẫn cảm với WSSV. 

Các cá thể bố mẹ (G0) được chọn dựa trên xếp thứ hạng của giá trị chọn giống di truyền (GBV) về tính kháng WSSV. Từ đó, hai đàn con G1 được tạo ra từ (i) những cá thể có GBV cao và (ii) cá thể có GBV thấp. Một đàn con thứ ba được tạo ra từ sự giao phối “ngẫu nhiên” của đàn bố mẹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống trung bình của 3 nhóm G1 khác biệt có ý nghĩa, tương ứng là 25% ở nhóm thấp, 38% ở nhóm ngẫu nhiên và 51% ở nhóm có GBV cao. Hệ số di truyền đối với DOA ở G1 cao (h2 = 0,41), chứng tỏ phương pháp chọn lọc dựa trên bộ gen đối với tính kháng WSSV có tiềm năng lớn trong cải thiện di truyền tính trạng này ở tôm thẻ chân trắng.

Ứng dụng công nghệ Biofloc sản xuất giống tôm sú

PGS.TS Châu Tài Tảo ở Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ cho biết, qui trình “Ứng dụng công nghệ Biofloc trong sản xuất giống tôm sú (Penaeus monodon)” đã chuyển giao cho nhiều trại sản xuất tại tỉnh Cà Mau đạt kết quả rất tốt. Trường Thủy sản cũng đang ứng dụng qui trình này tập huấn và chuyển giao công nghệ cho nhiều địa phương, trại giống và doanh nghiệp tôm giống.

Phát triển sản xuất giống tôm sú theo hướng an toàn sinh học, việc ứng dụng công nghệ Biofloc để tạo ra con giống chất lượng cao là rất cần thiết. Biofloc có vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng nước bể ương tôm, an toàn sinh học, làm thức ăn trực tiếp cho tôm, tăng cường dưỡng chất tự nhiên, giảm ô nhiễm môi trường. 

Những năm gần đây, các nhà khoa học tại Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc và đã xây dựng được qui trình sản xuất giống tôm sú theo công nghệ biofloc đạt tỷ lệ sống của postlarvae 12> 60%, năng suất >120.000 postlarvae/m3. Quá trình ương không sử dụng thuốc kháng sinh hay hóa chất, hạn chế thay nước, kiểm tra tôm Postlarvae sạch các loại bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), bệnh còi (MBV).

 Qui trình này đã và đang chuyển giao cho nhiều trại sản xuất giống tôm sú ở các địa phương cho kết quả rất tốt.

Đăng ngày 30/03/2025
Sáu Nghệ @sau-nghe
Góc nhìn

Khảo sát về tình hình nuôi trồng thủy sản hậu đại dịch

Chúng tôi xin phép gửi đến quý bà con thực hiện khảo sát phần quà nhỏ là 10.000VND card điện thoại như một lời cảm ơn chân thành, kính mong quý bà con giúp đỡ.

khảo sát thủy sản
• 17:21 24/02/2022

Tép Bạc tròn 10 tuổi

Tép Bạc kỷ niệm 10 năm thành lập (22/02/2012 - 22/02/2022).

Thủy sản Tép Bạc
• 21:38 22/02/2022

22/02/2022 NGÀY VÀNG - NGÀN ƯU ĐÃI

Còn chần chờ gì nữa mà không vào chọn sản phẩm rồi bỏ vào giỏ hàng ngay, đến 22-23/02 bấm mua hàng thì sản phẩm sẽ đến tay bạn thật sớm dù bạn ở gần hay xa.

tepbac eshop
• 09:51 22/02/2022

Chi cục thủy sản Hà Nội gửi thư mời tham dự Hội thảo miễn phí

Thư mời tham gia Hội thảo "Phát huy hiệu quả của chuyển đổi số trong Nuôi trồng thủy sản" do Chi cục thủy sản Hà Nội và công ty Tép Bạc phối hợp tổ chức.

Hội thảo thủy sản
• 01:33 21/02/2022

Kinh tế tuần hoàn chuyển đổi xanh với ngành tôm

Tương lai là kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh và đó cũng là tương lai bền vững cho ngành thủy sản bởi giải quyết được những thách thức lớn toàn cầu: Biến đổi khí hậu, nguồn nước, thương mại…

Ao tôm
• 09:00 02/12/2025

Thủy sản 10 tháng và vấn đề quản lý dịch bệnh

Trong 10 tháng đầu năm 2025, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng khá, tuy nhiên vẫn đối diện nhiều dịch bệnh và chuyên gia ở Phòng Quản lý bệnh thuỷ sản của Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư đề xuất giải pháp quản lý.

Ao tôm
• 09:00 12/11/2025

Nuôi trồng thủy sản bền vững với 5 giải pháp

Xu thế toàn cầu hiện nay, nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững phải bảo vệ nguồn lợi và sức khỏe người tiêu dùng. Việt Nam với các cơ hội và thách thức điển hình để đạt mục tiêu đó, chuyên gia ở Cục Thủy sản và Kiểm ngư nêu 5 giải pháp chính.

Ao tôm
• 10:00 05/11/2025

Tái định vị xuất khẩu thủy sản: Phân tích các thị trường tiềm năng ngoài Mỹ

Thị trường Mỹ, vốn từ lâu là "cửa ngõ" xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam, đang ngày càng trở nên khó lường với các rào cản thuế quan và sự cạnh tranh gay gắt. Trước bối cảnh đó, việc đa dạng hóa thị trường không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành một chiến lược sống còn để đảm bảo sự phát triển bền vững cho toàn ngành.

Ngành thủy sản Việt Nam đang đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để đảm bảo sự phát triển bền vững
• 09:00 01/10/2025

Nữ nông dân An Giang tay trắng làm nên cơ nghiệp, thu 800 triệu mỗi năm từ con sò huyết

Từ đôi bàn tay trắng, phải nghỉ học từ lớp 6 để mưu sinh, chị Thái Kim Hiền (xã Vĩnh Châu B, TX. Vĩnh Châu, Sóc Trăng) đã kiên trì vượt qua vô vàn khó khăn, thất bại để gây dựng nên một cơ nghiệp vững chắc. Mô hình nuôi kết hợp sò huyết và cá bống mú hiện mang về cho gia đình chị thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Thu hoạch sò
• 01:33 09/12/2025

Làng biển tan hoang, ngư dân gượng dậy mưu sinh sau bão

Trận bão lũ lịch sử đi qua đã để lại một khung cảnh tan hoang, tang thương cho các làng biển ở thị xã Sông Cầu, Phú Yên.

Mưa bão
• 01:33 09/12/2025

Vấn đề thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản

Cuối tháng 11/2025, tại thành phố Hồ Chí Minh có hội nghị quản lý thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản cho biết một số vấn đề đáng quan tâm.

Ao tôm
• 01:33 09/12/2025

Phân biệt tôm yếu gan, teo gan và hoại tử: Nhìn cho đúng để cứu tôm kịp thời

Thời gian gần đây, các bệnh về gan tụy trên tôm bùng phát mạnh khiến nhiều hộ nuôi "đứng ngồi không yên". Điều đáng nói là ranh giới giữa tôm mới chớm yếu gan và bệnh hoại tử chết sớm rất mong manh.

Tôm
• 01:33 09/12/2025

Xu hướng mukbang hải sản khổng lồ: Tò mò thị giác hay trào lưu gây lo ngại?

Trong vài năm gần đây, các video mukbang hải sản kích thước lớn xuất hiện dày đặc trên nền tảng mạng xã hội. Nội dung thường xoay quanh các mâm hải sản nhiều món, gồm bạch tuộc nguyên con, tôm hùm hoặc nghêu, sò với số lượng lớn.

Bạch tuộc
• 01:33 09/12/2025
Some text some message..