Nghiên cứu mô hình tôm càng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Việt Nam để cải tiến mô hình tôm càng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu.

Mô hình tôm càng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu
Ảnh minh họa

Phương pháp nghiên cứu

Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức với mức nước khác nhau trong 9 ruộng nuôi có diện tích 1 ha/ruộng.

Nghiệm thức 1 (NT 1): Mức nước trong ruộng nuôi là 60 cm;

Nghiệm thức 2 (NT 2): Mức nước là 90 cm;

Nghiệm thức 3 (NT 3): Mức nước là 120 cm.

Ao liền kề ở mỗi ruộng có diện tích dao động 2.500 - 3.000 m2/ao, độ sâu ao 1,2 - 1,5 m, dùng để ương dưỡng tôm giống giai đoạn ban đầu. Trước khi thả giống, ao và ruộng nuôi được thực hiện cải tạo tốt, cấp nước và duy trì ở mức 1 - 1,2 m. Con giống được Đại học Cần Thơ cung cấp, đảm bảo chất lượng và truy xuất nguồn gốc, tôm khỏe Post 15 (cỡ 1,2 - 1,5 cm) thả với mật độ 15 con/m2. Sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm cao (40 - 42%) và thức ăn tươi sống (cua, ốc bươu vàng). Quy trình kỹ thuật ứng dụng được thực hiện qua 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1 (Giai đoạn ương giống): Tôm càng xanh bột dùng để ương giống trong các ao liên kề ruộng có diện tích 3.000 m2. Mật độ ương 50 con/m2. Tôm giống được thu hoạch sau 2,5 tháng ương, cung cấp giống cho mô hình nuôi.

Giai đoạn 2 (Giai đoạn nuôi thương phẩm): Sau 2,5 tháng ương, tôm giống được thu hoạch, tuyển chọn tôm đực đồng đều kích cỡ, chất lượng, phản xạ nhanh với tiếng động để thả nuôi ở ruộng lúa với thời gian khoảng 3,5 - 4,5 tháng.

Xây dựng mô hình ứng dụng mạng cảm biến đo đạc, giám sát và quản lý vùng nuôi tôm

Hệ thống giám sát được thiết kế dựa trên nền kỹ thuật mạng cảm biến không dây (Li and Liu, 2013; Simbeye, Zhao and Yang, 2014; Luo et al., 2015) (WSN - Wireless Sensor Network), internet vạn vật (IoT - Internet of Thing) và lưu trữ, phân tích dữ liệu.

mô hình nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh đổi mới, nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh, kỹ thuật nuôi

Hình 1. Hệ thống giám sát môi trường nuôi tôm trên nền tác tử

Hệ thống triển khai trong thực tế là “Hệ thống giám sát môi trường trên nền tảng tác tử” (AEMS - Agent based Environment Monitoring System) (Hình 1) gồm: Thành phần chính của hệ thống AEMS là máy chủ dịch vụ giám sát và cảnh báo (Monitoring & Warning Services), cung cấp các dịch vụ: (1) lưu trữ; (2) phân tích dữ liệu (Analysis model); (3) Cảnh báo với thông tin cảnh báo và giải pháp thích hợp đến người sử dụng thông qua việc ứng dụng trang web và điện thoại di động. Phần thu thập các yếu tố môi trường do các trạm quan trắc (được xem như là một tác tử IoT-IoT agent) thực hiện. Các trạm quan trắc môi trường được gắn các loại cảm biến khác nhau, tùy theo nhu cầu giám sát các yếu tố môi trường tại vùng sản xuất (nhiệt độ nước, pH, DO và N-NH4+).

Quá trình thực nghiệm, tiến hành 3 đợt thu mẫu, mỗi đợt thu 5 mẫu và kết quả được phân tích và so sánh với thiết bị đo DO meter, pH meter của hãng HANNA; đo liên tục với thời gian cách nhau giữa các lần là 5 phút. Ứng dụng RMSE (Root Mean Squared Error) (Chatfield, 1992; Taylor, 1992) để đánh giá độ lệch giữa 2 thiết bị đo theo công thức:

mô hình nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh đổi mới, nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh, kỹ thuật nuôi

Phương pháp thu và phân tích mẫu

Mẫu tôm: Định kỳ thu mẫu mỗi tháng 1 lần, mỗi lần thu 30 con/ruộng để cân đo trọng lượng của tôm. Khảo sát tăng trưởng và tính toán các chỉ tiêu kỹ thuật theo phương pháp nghiên cứu của Schreck and Moyle, (1990) và Biswas, (1993). Các chỉ tiêu môi trường nước như nhiệt độ, pH nước, DO và N-NH4+ (mg/L) được giám sát, quản lý bằng hệ thống cảm biến, vận hành liên tục 24/24 giờ đặt ở kênh cấp, thoát nước và ruộng nuôi.

Phân tích hiệu quả tài chính mô hình: Thông qua các chi phí đầu tư vận hành và quản lý mô hình đồng thời tỷ suất lợi nhuận của mô hình cũng được xác định.

Kết quả

Tăng trưởng

Phân tích cho thấy, khối lượng tôm càng xanh ở các nghiệm thức từ tháng ương thứ nhất đến tháng thứ ba khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Thời điểm này tôm ở giai đoạn ương giống, môi trường ương giữa các nghiệm thức khá tương đồng, mực nước trong hệ thống đồng đều nhau, do vậy sự khác biệt về khối lượng tôm giống giữa các nghiệm thức là không lớn (p>0,05). Sự khác biệt về khối lượng tôm nuôi thể hiện rõ từ tháng nuôi thứ tư trở về sau. Khối lượng tôm nuôi trung bình giữa các nghiệm thức khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05), trong đó khối lượng trung bình lớn nhất ở nghiệm thức 3 (63,47 + 22,77 g/con), kế tiếp ở nghiệm thức 2 (58,63 + 21,90 g/con) và thấp nhất ghi nhận ở nghiệm thức 1 (55,40 + 17,62 g/con).

Giải thích về kết quả này, do sau giai đoạn ương giống trong các ao, tôm được thu hoạch và chuyển ra ruộng nuôi với mực nước sâu hơn (120 cm), các yếu tố môi trường nước ít bị biến động về chất lượng so với các ruộng có mức nước thấp hơn (60 và 90 cm), dinh dưỡng, quá trình trao đổi chất và tăng trưởng của tôm ổn định, sự thành thục sinh dục của tôm biểu hiện chậm hơn “mang trứng sớm” so với tôm nuôi trong điều kiện môi trường biến động (Pillay, 1990).

mô hình nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh đổi mới, nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh, kỹ thuật nuôi

Bảng 1. Tăng trưởng của tôm càng xanh ở 3 nghiệm thức

Tốc độ tăng trưởng (g/ngày) về khối lượng của tôm càng xanh qua các tháng nuôi (Bảng 2 và Hình 3) cho thấy, do cạnh tranh dưỡng khí và thức ăn trong điều kiện ương giống mật độ cao, tăng trưởng của tôm tương đối chậm ở 3 tháng đầu, dao động 0,04 - 0,29 g/ngày với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).  Từ tháng nuôi thứ tư, tăng trưởng của tôm khá nhanh, giữa các nghiệm thức giá trị dao động khoảng 0,35 - 0,61 g/ngày, trong đó giá trị cao nhất xuất hiện ở nghiệm thức 3 (0,61 g/ngày), tiếp đến ở nghiệm thức 2 (0,54 g/ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với giá trị thấp nhất ở nghiệm thức 1 (0,35 g/ngày).

mô hình nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh đổi mới, nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh, kỹ thuật nuôi

Tỷ lệ sống và năng suất của tôm nuôi

Tỷ lệ sống (%) của tôm nuôi cao nhất thu ở nghiệm thức 3 (31,8 + 0,8%). Sau 6 tháng nuôi, năng suất tôm cao nhất ở nghiệm thức mực nước 120 cm (1.590 + 24 kg/ha), kế đến là nghiệm thức 90 cm (1.509 + 45 kg/ha), thấp nhất ở nghiệm thức 1 với mức nước 60 cm (1.304 + 47 kg/ha) (p<0,05). Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) của tôm nuôi ở các nghiệm thức lần lượt là: nghiệm thức 1 (1,6 + 2,9), nghiệm thức 2 (1,7 + 2,3), nghiệm thức 3 (1,4 + 2,5), trong đó FCR tốt nhất ghi nhận ở nghiệm thức 3.

Mô hình cảm biến

mô hình nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh đổi mới, nuôi tôm, nuôi tôm càng xanh, kỹ thuật nuôi

Số liệu phân tích thể hiện ở bảng 4 cho thấy, độ lệch RMSE giữa 2 thiết bị (sản phẩm nghiên cứu và thiết bị đo từ pH meter, DO meter (HANNA) đối với yếu tố ôxy hòa tan không vượt quá 0,23, độ lệch của pH và nhiệt độ trong nước không vượt quá 0,20. Điều này nói lên rằng hoạt động thu thập dữ liệu môi trường từ thiết bị đo của HANNA và sản phẩm nghiên cứu của dự án là khá giống nhau.

Hiệu quả tài chính

Từ bảng 5 cho thấy, chi phí đầu tư cho mô hình nuôi thấp nhất ở nghiệm thức 1, kế đến là nghiệm thức 2 và sau cùng là nghiệm thức 3. Nguyên nhân, trong quá trình nuôi, các hộ nuôi ở nghiệm thức 1 duy trì mực nước trong ruộng thấp 60 cm, nên chi phí thay nước thấp hơn so với các hộ ở nghiệm thức 90 cm và 120 cm.

Phân tích hiệu quả tài chính từ mô hình cho thấy, hầu hết các hộ tham gia nuôi đều thu được lợi nhuận, dao động từ 48,4 - 131,1 triệu đồng/ha. Tỷ suất lợi nhuận ở nghiệm thức 3 cao nhất (85%) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức 2 (62,9%) và nghiệm thức 1 (32,5%).

1. Đại học Cần Thơ 2. Trung tâm Công nghệ sinh học, Sở Khoa học và Công nghệ An Giang
Đăng ngày 05/02/2018
Dương Nhựt Long, Võ Hoàng Liêm Đức Tâm,  Nguyễn Nhật Minh và Trương Minh Thái,  Nguyễn Công Kha
Kỹ thuật

Những tác hại từ độ đục nước ao nuôi

Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của tôm chính là độ đục của nước ao. Độ đục cao có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, từ cản trở quá trình quang hợp của tảo, ảnh hưởng đến hệ sinh thái ao nuôi, cho đến làm suy giảm chất lượng nước, gây bệnh cho tôm. Dưới đây là những tác hại chính của nước ao bị đục và cách khắc phục tình trạng này.

Ao nuôi tôm
• 09:49 06/03/2025

Ương tôm: Bước đệm quan trọng cho vụ nuôi thành công

Trong nuôi tôm, chất lượng con giống đóng vai trò quyết định, chiếm đến 50% thành công của vụ nuôi. Nếu con giống không đạt chuẩn, tôm dễ bị hao hụt, chậm lớn, còi cọc và dễ mắc bệnh, gây tổn thất không nhỏ cho bà con.

Tôm thẻ
• 10:36 28/02/2025

Tôm chậm lớn, vỏ mềm: Dấu hiệu thiếu khoáng hay do bệnh?

Việc tôm chậm lớn và vỏ mềm là những dấu hiệu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó phổ biến nhất là tình trạng thiếu khoáng và bệnh tôm. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tốc độ sinh trưởng của tôm, khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn trong quá trình nuôi. Nếu không phát hiện và xử lý kịp thời, tôm có thể bị chết hàng loạt hoặc tăng trưởng kém, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Bài viết này sẽ giúp người nuôi nhận diện nguyên nhân gây ra tình trạng tôm chậm lớn, vỏ mềm và cách khắc phục hiệu quả.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:34 28/02/2025

Dấu hiệu phân biệt tôm chết do khí độc với tôm chết do virus, vi khuẩn

Việc tôm chết bất thường luôn là nỗi lo lớn đối với người nuôi. Tuy nhiên, để có biện pháp xử lý phù hợp, trước hết cần xác định nguyên nhân khiến tôm chết là do khí độc hay do tác nhân gây bệnh như virus, vi khuẩn. Dưới đây là những dấu hiệu giúp người nuôi phân biệt hai nguyên nhân này.

Tôm thẻ
• 10:17 27/02/2025

EHP phá hủy hệ tiêu hóa của tôm

EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là một loại vi bào tử trùng thuộc nhóm Microsporidia, gây bệnh phổ biến trên tôm nuôi, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Bệnh EHP không gây chết hàng loạt như hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay bệnh đốm trắng, nhưng lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tăng trưởng và năng suất của tôm. Do không có thuốc đặc trị, EHP đang trở thành mối đe dọa lớn đối với ngành nuôi tôm trên toàn cầu.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:30 07/03/2025

Phân tích thị trường và thời điểm bán tôm để đạt giá cao nhất 2025

Trong bối cảnh giá tôm biến động mạnh suốt thời gian qua, việc chọn đúng thời điểm bán để đạt giá cao nhất là mối quan tâm hàng đầu của người nuôi và các doanh nghiệp xuất khẩu.

Tôm thẻ
• 10:30 07/03/2025

Cà Mau: Giữ vững vị thế dẫn đầu trong sản xuất và xuất khẩu tôm

Cà Mau, tỉnh cực Nam của Việt Nam, từ lâu đã nổi tiếng là "thủ phủ tôm" của cả nước. Với lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi, diện tích nuôi trồng rộng lớn và sự đầu tư mạnh mẽ vào khoa học - công nghệ, Cà Mau không chỉ duy trì mà còn củng cố vị thế dẫn đầu trong ngành sản xuất và xuất khẩu tôm.

Tôm thẻ
• 10:30 07/03/2025

Giới thiệu các loài cây thủy sinh phủ xanh hồ cá

Hồ cá không chỉ là một không gian giải trí và thư giãn mà còn là một hệ sinh thái thu nhỏ, nơi cây thủy sinh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp oxy, lọc nước và tạo cảnh quan xanh mát. Việc lựa chọn cây thủy sinh phù hợp không chỉ giúp hồ cá trở nên sinh động hơn mà còn có tác động tích cực đến hệ sinh thái bên trong hồ. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết về một số loài cây thủy sinh phổ biến giúp phủ xanh hồ cá, mang lại vẻ đẹp tự nhiên và cân bằng sinh thái.

Hồ cá thủy sinh
• 10:30 07/03/2025

Tôm hùm: Sản lượng xuất khẩu tăng nhưng người nuôi vẫn thua lỗ

Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 1/2025 ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, với kim ngạch đạt trên 774 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt, nhờ nhu cầu cao từ Trung Quốc, mặt hàng tôm hùm và cua có sự tăng trưởng mạnh mẽ, giúp tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt mức cao. Tuy nhiên, nghịch lý đang diễn ra là dù sản lượng xuất khẩu tăng, người nuôi vẫn phải chịu cảnh thua lỗ. Vậy đâu là nguyên nhân?

Tôm hùm
• 10:30 07/03/2025
Some text some message..