Theo thống kê của Chi cục Thủy sản tỉnh Bắc Ninh, tính đến tháng 6-2017, toàn tỉnh có gần 1.600 lồng nuôi cá, tập trung tại các huyện: Lương Tài, Tiên Du, Quế Võ, Thuận Thành, Gia Bình… chủ yếu nuôi các loại cá có giá trị như: Cá lăng, điêu hồng, ngạnh, trắm cỏ, rô phi đơn tính. Trong đó, huyện Lương Tài là địa phương khai thác rất tốt mặt nước sông Thái Bình để nuôi trồng thủy sản, với diện tích là 1.350 ha, trong đó có hơn 600 lồng nuôi cá, cho sản lượng hằng năm hơn 12 nghìn tấn, chiếm 32% sản lượng của toàn tỉnh.
Các hộ nuôi cá lồng đạt hiệu quả kinh tế cao có thể kể đến là, gia đình anh Phạm Văn Bôn, ở xã Trung Kênh (huyện Lương Tài), hiện có 77 lồng cá, trong đó, chủ yếu là cá chép, cá điêu hồng, cá trắm cỏ, cá lăng. Mỗi vụ gia đình anh Bôn thu hoạch trung bình đạt khoảng bốn tấn/lồng; trừ chi phí mua giống, thức ăn chăn nuôi, thu lãi khoảng hai tỷ đồng/năm. Gia đình ông Phạm Văn Bảo, ở thôn Quan Kênh, xã Trung Kênh bắt đầu nuôi cá lồng năm 2012, quy mô 28 lồng, với các giống cá trắm, chép, rô phi, lăng, điêu hồng; trừ các chi phí, thu lãi gần năm trăm triệu đồng/năm. Chủ tịch UBND xã Trung Kênh Phạm Văn Vy cho biết, chính quyền địa phương thường xuyên phối hợp Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Chi cục Thủy sản tỉnh đưa nông dân nuôi cá lồng đi tập huấn và phối hợp các phòng chuyên môn của huyện giải quyết thủ tục giải ngân khoản tiền hỗ trợ của tỉnh. Hiện nay, các hộ nuôi cá đã nhận hết tiền hỗ trợ.
Ông Nguyễn Duy Hưng, một hộ nuôi cá lồng trên sông Đuống, thuộc địa bàn xã Cảnh Hưng (huyện Tiên Du) chia sẻ: Nuôi cá lồng cho thu nhập cao, nhưng vốn đầu tư ban đầu lớn, mức độ rủi ro không nhỏ. Năm 2014, ông bắt đầu nuôi với số vốn ban đầu chỉ đủ đầu tư hai lồng cá; đến nay đã thả được hơn 85 lồng cá, tổng số vốn lên đến hàng chục tỷ đồng. Tuy mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng hiện nay, do các hộ nuôi chưa nắm bắt đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật cho nên mật độ đặt lồng quá dày, ảnh hưởng sự lưu thông của dòng chảy; không áp dụng đúng các quy trình kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, quy trình phòng trừ bệnh cho cá khi xảy ra dịch bệnh; lượng thức ăn dư thừa, chất thải của cá làm ô nhiễm môi trường nước, tăng nguy cơ dịch bệnh. Nhiều thời điểm, cá bị chết, một số hộ không tiêu hủy mà đổ ra sông, gây ô nhiễm môi trường nước, tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh trên diện rộng. Một số doanh nghiệp sản xuất có nhà máy ven các sông, xả chất thải chưa qua xử lý ra sông; tàu thuyền hoạt động trên sông để tràn dầu với số lượng lớn; tình trạng mưa lũ thất thường… ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của nghề nuôi cá lồng.
Để phát triển nghề nuôi cá lồng bền vững, theo Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Bắc Ninh Phan Đình Tuấn, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm ngành nông nghiệp tỉnh, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước trong phối hợp quản lý tình hình phát triển nghề nuôi cá lồng trên từng địa bàn; tập trung hướng dẫn cho toàn bộ các hộ nuôi cá lồng về kiến thức nuôi cá theo hướng bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chấp hành tốt quy định về giao thông đường thủy, Luật Đê điều và cấp mã cho toàn bộ số lồng nuôi cá để phục vụ cho công tác quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Cán bộ ngành nông nghiệp cần quan tâm hướng dẫn các hộ đa dạng các kiểu lồng nuôi phù hợp việc ươm cá giống, nuôi cá thương phẩm, tạo thuận lợi cho việc chăm sóc, thu hoạch sản phẩm, bảo đảm vệ sinh, tạo điều kiện cho cá tăng trưởng tốt.
Chi cục Thủy sản tỉnh cần thường xuyên khuyến cáo các hộ lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp khả năng kinh tế và kỹ thuật. Những hộ nuôi nhỏ lẻ nên tập trung tổ chức lại sản xuất, có sự liên kết với nhau để chuyên sâu theo đối tượng nuôi, giảm áp lực đầu ra khi thu hoạch. Đối với các cơ sở nuôi cá lồng không theo quy hoạch, vi phạm quy định về điều kiện nuôi cá lồng trên sông, giao thông đường thủy, Luật Đê điều, cần xử lý nghiêm theo quy định, có như vậy việc phát triển nuôi cá lồng trên sông mới thật sự phát triển bền vững.