Khi rừng và tôm cùng nhau hài hòa: Một hệ sinh thái vàng
Trong điều kiện lý tưởng, mô hình nuôi tôm kết hợp rừng ngập mặn thể hiện sự gắn kết giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường. Rừng ngập mặn đóng vai trò như một lá chắn tự nhiên trước biến đổi khí hậu và đồng thời là “máy lọc sinh học” giúp xử lý chất thải, ổn định chất lượng nước. Bộ rễ phát triển mạnh của cây rừng giữ lại dinh dưỡng dư thừa và cải thiện môi trường ao nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm phát triển khỏe mạnh với ít chi phí hơn cho thức ăn và thuốc men.
Tôm nuôi dưới tán rừng không chỉ chất lượng cao, mà còn có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn sinh thái quốc tế, mở rộng đường vào những thị trường xuất khẩu khắt khe. Đây là một mô hình cộng sinh đúng nghĩa: người dân có nguồn thu ổn định, môi trường tự nhiên được phục hồi, và hệ sinh thái được duy trì bền vững. Chính những yếu tố này đã làm nên uy tín và bản sắc riêng biệt của mô hình tôm – rừng trong chiến lược phát triển nông nghiệp xanh của Việt Nam.
Mô hình tôm-rừng là sự cộng sinh cùng có lợi. Ảnh: nld.com.vn
Khi tôm-rừng bị biến tướng: Cái bẫy phá rừng dưới vỏ bọc bền vững
Lợi ích kinh tế từ mô hình tôm–rừng đã dẫn đến làn sóng khai thác thiếu kiểm soát ở nhiều địa phương. Không ít hộ dân vì chạy theo lợi nhuận đã chặt phá rừng ngập mặn nguyên sinh để mở rộng diện tích ao nuôi. Thậm chí, một số trường hợp còn dùng thủ đoạn như giữ nước làm chết cây, rồi hợp thức hóa diện tích đất. Đây là hành vi đi ngược với tinh thần hài hòa con người – thiên nhiên mà mô hình này vốn theo đuổi.
Tình trạng tự phát mở rộng vùng nuôi, thiếu định hướng quy hoạch cũng đang trở thành vấn đề đáng lo ngại. Khi tỷ lệ diện tích ao vượt quá ngưỡng cho phép, hệ sinh thái bị mất cân bằng nghiêm trọng. Mật độ nuôi dày không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước mà còn làm gia tăng dịch bệnh, kéo theo những hệ lụy dài hạn cho cả môi trường lẫn sinh kế người dân.
Tàn phá cả cánh rừng ngập mặn xanh ngút ngàn để nuôi tôm. Ảnh: vtcnews.vn
Những hệ lụy khôn lường khi thiếu sự cân bằng
Việc phá rừng ngập mặn để mở rộng ao nuôi không chỉ làm tổn hại hệ sinh thái bản địa mà còn đe dọa sinh kế của nhiều cộng đồng ven biển. Nguồn nước trong ao sau khi bị ô nhiễm thường xuyên xả thải ra kênh rạch, khiến tác động lan rộng ra cả khu vực xung quanh.
Chính người nuôi sẽ là những người đầu tiên gánh chịu hậu quả. Môi trường suy thoái khiến tôm dễ nhiễm bệnh, đặc biệt khi mật độ nuôi vượt mức cho phép. Việc sử dụng các tiêu chuẩn xanh một cách hình thức còn tạo ra “ảo ảnh bền vững”, khiến thị trường mất niềm tin. Nếu không được kiểm soát kịp thời, uy tín ngành tôm Việt sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo theo hệ lụy cho cả những người đang nỗ lực làm đúng.
Rừng ngập mặn dọc sông Mơ bị chặt phá. Ảnh: vtcnews.vn
Làm đúng ngay từ đầu: Trả lại giá trị thật cho mô hình tôm - rừng
Mô hình tôm – rừng chỉ phát huy được giá trị nếu được triển khai đúng cách. Việc phát triển bền vững đòi hỏi các quy định chặt chẽ về tỷ lệ giữa rừng và diện tích ao nuôi, cùng với hệ thống chứng nhận rõ ràng, minh bạch để ngăn chặn tình trạng “gắn mác xanh” mang tính hình thức.
Quản lý hiệu quả không nên đặt nặng việc trồng lại rừng đã mất, mà cần tập trung bảo vệ rừng tự nhiên còn lại và phục hồi các khu vực đã suy thoái. Người nuôi cần được trang bị kiến thức kỹ thuật lẫn tư duy sinh thái, hiểu rằng sự cân bằng giữa rừng và tôm mới là nền tảng cho sinh kế ổn định và giá trị lâu dài cho cộng đồng ven biển.