So sánh 3 hệ thống ương tôm thẻ chân trắng

Hệ thống ương trong nhà ngày càng trở nên phổ biến trong nuôi tôm thẻ chân trắng chất lượng cao. Các hệ thống này cung cấp nhiều lợi ích như: Kích thước tôm đồng đều, giảm sự ăn thịt lẫn nhau, giảm thời gian nuôi thương phẩm trong ao, tăng số lần thu hoạch mỗi năm, hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt hơn và tôm nhanh lớn hơn.

tôm thẻ chân trăng giống
So sánh 3 hệ thống ương tôm thẻ chân trắng phổ biến hiện nay: Tuần hoàn nước sạch, quang dị dưỡng và Biofloc.

Tuy nhiên, vẫn chưa rõ hệ thống nào phù hợp nhất cho các trại ương tôm thẻ trong nhà. Do đó, nghiên cứu này đánh giá và so sánh 3 hệ thống ương tôm thẻ được đánh giá cao là: Tuần hoàn nước sạch (CW-RAS), quang dị dưỡng (PT) và công nghệ biofloc (BFT) về chất lượng nước, hiệu suất tăng trưởng và chi phí sản xuất tôm thẻ ở ba mật độ thả (500, 1000 và 1500 con/m3) trong giai đoạn ương 35 ngày. 

Hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS giúp duy trì chất lượng, hệ thống có thể có chi phí khởi động và vận hành cao hơn. Hệ thống quang dị dưỡng PT cho phép tăng trưởng cao với chi phí sản xuất thấp. Hơn nữa, tôm thẻ có sự tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt trong hệ thống biofloc BFT, điều này dẫn đến chi phí cao hơn so với hệ thống quang dị dưỡng PT.


RASPTBFT
Chất lượng nước
Cao
Trung bình
Thấp
Năng suất 
ThấpThấp
Trung bình
Tỷ trọng
Cao
Trung bình
Thấp
Tỷ lệ tăng trưởng
ThấpCao
Trung bình
Tỷ lệ sống
Trung bìnhCao
Trung bình
Chi phí
Cao
Thấp
Trung bình


1. Chất lượng nước

Nhiệt độ, độ mặn, DO và pH vẫn nằm trong phạm vi chấp nhận được ở tất cả các nghiệm thức đối với sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Nồng độ TAN (tổng ammoniac), nitrit và nitrat ở tất cả các nghiệm thức cũng nằm trong phạm vi an toàn cho tôm thẻ.

Tuy nhiên trong nghiên cứu này, TAN ở nghiệm thức tuần hoàn nước sạch CW-RAS đạt nồng độ trung bình là 1,23 mg/L ở mật độ D1500 cao hơn so với nghiệm thức quang dị dưỡng PT và biofloc BFT. Ở các nghiệm thức quang dị dưỡng PT và biofloc BFT, nồng độ TAN thấp nhất cho thấy ba quá trình loại bỏ TAN đã xảy ra: Loại bỏ quang dưỡng bởi tảo, chuyển đổi bằng vi khuẩn tự dưỡng và chuyển đổi vi khuẩn dị dưỡng trực tiếp thành sinh khối vi sinh vật. 

Trong nghiên cứu của Ray et al. (2017) nhận thấy rằng nồng độ nitrit trong nghiệm thức tuần hoàn nước sạch CW-RAS thấp hơn trong biofloc BFT, như trong nghiên cứu hiện tại. Điều này có thể là do tỷ lệ thay nước cao trong hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS so với các hệ thống khác. Nitrat, sản phẩm cuối cùng của quá trình nitrat hóa, được quan sát thấy nồng độ cao nhất trong nghiệm thức tuần hoàn nước sạch CW-RAS và biofloc BFT. Trong hệ thống quang dị dưỡng PT, vi tảo đã giúp giảm nồng độ nitrat do đó hàm lượng nitrat ở nghiệm thức này thấp hơn so với các nghiệm thức còn lại. 

tôm thẻ chân trắng giống
Nhiệt độ, độ mặn, DO và pH ở tất cả các nghiệm thức đều phù hợp đối với sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Ảnh: Global Aquaculture Alliance.

2. Hiệu suất tăng trưởng

Tôm thẻ chân trắng lớn hơn đáng kể với tỷ lệ sống cao hơn ở 2 nghiệm thức quang dị dưỡng PT và biofloc BFT so với hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS. Đặc biệt, hệ thống biofloc BFT tạo ra sinh khối và sản lượng cao hơn ở mật độ 1500 con/m3 với tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tốt hơn và hiệu quả sử dụng thức ăn. Đồng thời, hệ số biến động của tôm được quan sát thấy thấp hơn ở nghiệm thức BFT ở tất cả các mật độ.

Trong giai đoạn ương ở nghiên cứu này đã quan sát thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa năng suất tăng trưởng của tôm thẻ và mật độ nuôi. Giá trị FBW, WG, GR và SGR cao hơn ở mật độ 500 con/m3. Giảm sinh trưởng khi mật độ tăng trong giai đoạn ương là do giảm chất lượng nước, năng suất tự nhiên và không gian sống. 

Hệ thống quang dị dưỡng PT và biofloc BFT được cho là có sẵn các vi tảo và vi sinh vật liên quan đến bioflocs - nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm thẻ cao hơn so với hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS. Trong nghiên cứu hiện tại, hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất được quan sát thấy trong hệ thống biofloc BFT ở mật độ 500-1.000 con/m3. Hơn nữa, cấy vi tảo trong các hệ thống quang dị dưỡng PT và biofloc BFT trong nghiên cứu này góp phần vào hiệu suất tốt hơn của tôm thẻ chân trắng. 

Trong giai đoạn ương, mật độ nuôi cao có thể làm thay đổi sự không đồng nhất về kích thước của tôm thẻ. Sự đồng đều về kích cỡ vẫn là một khía cạnh quan trọng trong nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, CV-BW( hệ số biến đổi - trọng lượng cơ thể) thấp và thể hiện mô hình: CW-RAS> PT> BFT. Điều này chỉ ra rằng hơn 97,5% tôm thẻ chân trắng trong 35 ngày có trọng lượng tương đối đồng đều trong hệ thống biofloc BFT. Ngoài ra, tỷ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi mật độ nuôi.

tôm thẻ chân trắng giống
Tôm thẻ chân trắng lớn hơn đáng kể với tỷ lệ sống cao hơn ở 2 nghiệm thức PT và BFT so với CW-RAS. Ảnh: Global Aquaculture Alliance.

3. Chi phí sản xuất

Việc lựa chọn các hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS, quang dị dưỡng PT và biofloc BFT ở cấp độ thương mại, không chỉ coi hiệu quả sản xuất là yếu tố quyết định trong giai đoạn ươm mà còn phân tích các chiến lược quản lý thông qua hiệu quả kinh tế và tối ưu hóa các yếu tố đầu vào với nhằm thu được lợi nhuận tốt nhất.

Trong nghiên cứu này, chi phí của giai đoạn ương dưỡng của các hệ thống CW-RAS, PT và BFT gần giống với giai đoạn ương giống hơn là giai đoạn nuôi thương phẩm, trong đó tỷ lệ chi phí lao động, hậu ấu trùng cao hơn so với chi phí cho ăn và năng lượng. Trong đó, chi phí sản xuất cao nhất được ghi nhận ở hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAS và thấp nhất đối với hệ thống quang dị dưỡng PT. 

Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng hệ thống quang dị dưỡng PT có thể là một lựa chọn hiệu quả hơn và có lợi hơn so với hệ thống tuần hoàn nước sạch CW-RAR và biofloc BFT để sản xuất tôm thẻ chân trắng trong giai đoạn ương.

Cuối cùng, mật độ thả trong giai đoạn ương tốt nhất là 500 con/m3. Hơn nữa, kết quả cuối cùng cho thấy hệ thống quang dị dưỡng PT có chi phí thấp nhất so với hệ thống CW-RAS và BFT. 

References: Delia Rodríguez-Olague et al. (2021). Effect of nursery system and stocking density to produce juveniles of whiteleg shrimp Litopenaeus vannamei, Elsevier, https://doi.org/10.1016/j.aqrep.2021.100709.

Đăng ngày 15/06/2021
Sương Phạm @suong-pham
Kỹ thuật

Phân biệt bệnh đốm trắng trên tôm do vi khuẩn và virus

Bệnh đốm trắng trên tôm là một trong những bệnh nguy hiểm và phổ biến nhất đối với ngành nuôi tôm, gây thiệt hại lớn về kinh tế và sản lượng. Đây là bệnh có thể do nhiều tác nhân khác nhau gây ra, trong đó nổi bật là các loại vi khuẩn và virus. Dù cả hai loại tác nhân này đều gây ra các triệu chứng tương tự nhau, nhưng nguyên nhân, cách thức lây lan, cũng như phương pháp điều trị và phòng ngừa lại hoàn toàn khác biệt

Tôm thẻ chân trắng
• 11:03 22/11/2024

Nuôi tôm thành công nhờ vào vi sinh vật có lợi

Ngày càng nhiều người nuôi nhận thấy lợi ích của việc sử dụng vi sinh vật có lợi để cải thiện môi trường ao và tăng cường sức khỏe cho tôm. Đây không chỉ là xu hướng mới mà còn là một phương pháp nuôi tôm bền vững, giúp giảm thiểu rủi ro bệnh tật và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tôm thẻ chân trắng
• 09:38 11/11/2024

Điều chỉnh lượng và kích thước thức ăn cho tôm qua từng giai đoạn

Quản lý thức ăn là một yếu tố quan trọng giúp người nuôi tối ưu hóa quá trình nuôi tôm và giảm thiểu lãng phí, từ đó mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ rằng lượng và kích thước thức ăn cần được điều chỉnh qua từng giai đoạn phát triển của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:47 05/11/2024

Có phải khi lột vỏ, tôm sẽ trốn dưới đáy ao?

Hành vi của tôm trong giai đoạn lột vỏ có những đặc điểm rất khác biệt so với lúc bình thường. Trong đó, một trong những hành vi dễ nhận thấy nhất là tôm có xu hướng trốn dưới đáy ao hoặc các khu vực an toàn hơn.

Tôm thẻ
• 14:26 01/11/2024

Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng các chế phẩm sinh học

Một trong những giải pháp bền vững, an toàn và hiệu quả là sử dụng các chế phẩm sinh học. Chế phẩm sinh học không chỉ giúp cải thiện sức đề kháng cho tôm mà còn có lợi cho môi trường ao nuôi, giảm nhu cầu sử dụng kháng sinh và các hóa chất độc hại.

Tôm thẻ
• 17:11 23/11/2024

Phân biệt bệnh đốm trắng trên tôm do vi khuẩn và virus

Bệnh đốm trắng trên tôm là một trong những bệnh nguy hiểm và phổ biến nhất đối với ngành nuôi tôm, gây thiệt hại lớn về kinh tế và sản lượng. Đây là bệnh có thể do nhiều tác nhân khác nhau gây ra, trong đó nổi bật là các loại vi khuẩn và virus. Dù cả hai loại tác nhân này đều gây ra các triệu chứng tương tự nhau, nhưng nguyên nhân, cách thức lây lan, cũng như phương pháp điều trị và phòng ngừa lại hoàn toàn khác biệt

Tôm thẻ chân trắng
• 17:11 23/11/2024

Những điểm mạnh từ sự phát triển ngành thủy sản Australia mà Việt Nam có thể học hỏi

Ngành thủy sản Australia không chỉ nổi tiếng với những sản phẩm chất lượng cao mà còn được xem là hình mẫu về phát triển bền vững.

Thủy sản
• 17:11 23/11/2024

Thần tình yêu đại dương - Cá thần tiên rạn san hô

Cá thần tiên rạn san hô Tosanoides Aphrodite là một phát hiện đầy bất ngờ trong thế giới sinh vật biển. Được các nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học California (Mỹ) công bố, loài cá này không chỉ gây ấn tượng bởi vẻ đẹp lộng lẫy mà còn khiến cộng đồng khoa học ngạc nhiên khi chúng chưa từng được ghi nhận trước đây. Cùng tìm hiểu về loài cá được mệnh danh là "thần tình yêu đại dương" này!

Tosanoides Aphrodite
• 17:11 23/11/2024

Tôm vào vụ đông - Sale không giới hạn

Khi tôm vào vụ mới công tác chuẩn bị vật tư, vệ sinh ao, nguồn nước,... là những khâu quan trọng để có một mùa vụ thành công. Việc này ngoài bỏ công sức ra thì cũng tốn khá nhiều chi phí. Để tiết kiệm hơn, bà con hãy ghé ngay Farmext eShop, tại đây sắp diễn ra nhiều ưu đãi cực to cho các sản phẩm phục vụ nuôi tôm vụ đông.

Tôm vào vụ đông
• 17:11 23/11/2024
Some text some message..