Ba khía là loài đặc sản và có giá trị tốt ở đồng bằng sông Cửu Long. Ba khía có tên khoa học là Sesarma mederi thuộc họ Searmidae. Ba khía có hình dạng gần giống con còng nhưng kích thước lớn hơn khoảng 4 – 5 cm và nặng trung bình khoảng 20 – 30 g. Trên lưng của ba khía có ba gạch đặc trưng của loài. Tính ăn của ba khía biến đổi tùy theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng ba khía thích ăn thực vật và động vật phù du. Ba khía con chuyển dần sang ăn tạp như rong to, giáp xác, nhuyễn thể, cá hay ngay cả xác chết động vật . Ba khía có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Ấu trùng có thể lột xác trong vòng 1 – 2 ngày /lần. Ba khía lớn lột xác chậm hơn nửa tháng hay một tháng một lần.
Trong những năm gần đây, ba khía được khai thác quá mức ở các vùng ven biển Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh... và có nguy cơ cạn kiệt trong thời gian sắp tới gây mất cân bằng sinh thái.Vì vậy việc nghiên cứu tìm ra qui trình sản xuất giống là rất cần thiết nhằm cung cấp con giống cho người nuôi đồng thời còn giúp bảo tồn nguồn lợi.
Nghiên cứu của Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải, 2017 được thực hiện nhằm xác định loại thức ăn và môi trường ương thích hợp cho từng giai đoạn của ấu trùng ba khía.
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Ương ấu trùng ba khía từ Zoea-1 đến Zoea-4 gồm 6 nghiệm thức với các loại thức ăn khác nhau và mật độ 300 con/L.
Giai đoạn 2: Ương ấu trùng ba khía từ Zoea-4 đến ba khía-1 gồm 6 nghiệm thức với các loại thức ăn khác nhau và mật độ 100 con/L, nguồn Zoea-4 được lấy từ 1 bể ương chung 2 m2.
Tảo Chlorella từ hệ thống nước xanh-cá rô phi được cấp vào bể nước xanh với mật độ 60.000 tế bào/mL trước khi bố trí ấu trùng. Hệ thống nước xanh không được thay nước và tảo được duy trì mật độ trong bể ương từ 60.000 đến 70.000 tế bào/L trong suốt quá trình ương nuôi. Mật độ tảo trong các bể ương ở hệ thống nước xanh được định kỳ kiểm tra 3 ngày 1 lần.
Đối với hệ thống nước trong định kỳ 3 ngày siphon và thay nước 1 lần, mỗi lần thay 20% nước bể ương. Mỗi ngày cho ấu trùng ba khía ăn 8 lần, cách 3 giờ cho ăn một lần. Thức ăn được cho ăn xen kẽ nhau giữa mỗi lần ăn theo từng nghiệm thức. Lượng luân trùng cho ăn 10 con/mL/lần, Artemia: 2g/m3/lần và thức ăn nhân tạo (Frippak-150 và lansy-PL): 0,5 g/m3/lần.
Kết quả:
Nếu ương ấu trùng ba khía từ Zoea-1 đến Zoea-4 với loại thức ăn C và ương từ Zoea-4 đến ba khía-1 bằng loại thức ăn D thì chỉ số biến thái, tăng trưởng về chiều dài, tỷ lệ sống và năng suất của ba khía là tốt nhất khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại và không có khác biệt nhiều giữa hệ thống nước trong và nước xanh.
Ở Việt Nam trước tình hình khai thác quá mức làm cho nguồn lợi thủy sản đang dần cạn kiệt và có nguy cơ mất cân bằng sinh thái.Vì vậy, kết quả từ nghiên cứu cung cấp thông tin cơ sở vào ương nuôi ba khía nhằm cung cấp con giống cho người nuôi đồng thời còn giúp bảo tồn nguồn lợi.
Tạp chí khoa học đại học Cần Thơ. Tập 53, Phần B (2017).