Thức ăn viên tổng hợp trong nuôi vỗ tôm thẻ bố mẹ

Nghiên cứu đánh giá khả năng thay thế một phần thức ăn tươi sống bằng thức ăn viên tổng hợp tự sản xuất trong nuôi vỗ thành thục tôm thẻ chân trắng bố mẹ.

tôm thẻ bố mẹ
Tôm thẻ chân trắng cái thành thục sinh dục.

Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất giống tôm, nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ có tính chất quyết định, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của tôm. Trong khâu nuôi vỗ tôm thành thục, thức ăn tươi sống như hồng trùng, mực, hầu, vẹm, ốc ký cư… được sử dụng như khẩu phần thức ăn không thể thiếu để đảm bảo tôm bố mẹ thành thục và chất lượng sinh sản tối ưu.

Tuy nhiên, thức ăn tươi sống có nhiều mặt hạn chế như giá cao, nguồn cung cấp không ổn định về số lượng, chất lượng dinh dưỡng, khó bổ sung thêm các dưỡng chất cần thiết, rủi ro về lây truyền dịch bệnh sang tôm bố mẹ cao. Vì vậy, cần nghiên cứu phát triển thức ăn viên tổng hợp để thay thế một phần hoặc toàn phần thức ăn tươi sống nhằm giảm thiểu những hạn chế của thức ăn sống. Hơn nữa việc sử dụng thức ăn tổng hợp còn giúp cho việc bổ sung vitamin, khoáng và các dưỡng chất cần thiết vào khẩu phần ăn của tôm bố mẹ được dễ dàng hơn.

Bố trí thí nghiệm

Tôm thí nghiệm là tôm chân trắng bố mẹ (Liptopenaeus vannamei) có khối lượng trung bình 30,1 ± 1,2 g/con (tôm cái) và 29,1 ± 1,1 g/con (tôm đực). Thức ăn được sản xuất với cỡ 3 mm bởi hệ thống máy sản xuất thức ăn viên, sử dụng nồi hơi. Sau khi đùn viên, thức ăn được sấy ở nhiệt độ 35oC trong vòng 3 giờ, đảm bảo độ ẩm trên 15%.

Thành phần dinh dưỡng quy về khối lượng khô của thức ăn viên tổng hợp trong thí nghiệm là 56,2 % protein, 13,4% lipid. Nguyên liệu và kết quả phân tích dinh dưỡng của thức ăn thể hiện ở bảng bên dưới:


Thí nghiệm được bố trí gồm 3 công thức như sau: 

Công thức 1: 100% thức ăn tươi sống (mực và hồng trùng, tỉ lệ 1:1). 

Công thức 2: 75% thức ăn tươi sống (hồng trùng và mực tươi, tỉ lệ 1: 1) và 25% thức ăn tổng hợp.

Công thức 3: 50% thức ăn tươi sống (hồng trùng và mực tươi, tỉ lệ 1:1) + 50% thức ăn tổng hợp.

Tôm cái được nuôi riêng trong ba bể với mật độ 3,75 con/m2 (30 con/bể). Tôm đực được nuôi chung một bể với mật độ 8 con/m2 (64 con).

Chọn ngẫu nhiên mỗi bể tôm cái để cho ăn theo công thức 1, công thức 2 hoặc công thức 3. Tôm đực được cho ăn hoàn toàn thức ăn tươi sống (công thức 1). Cho tôm ăn ngày 4 lần: 7h, 11h, 17h và 22h hàng ngày, thay nước 100 - 150%/ngày trong các bể nuôi vỗ. Sau hai tuần nuôi vỗ, tiến hành cắt mắt tôm mẹ để kích thích sự phát triển buồng trứng.

Kết quả

Đối với chỉ tiêu tăng trưởng: trong quá trình nuôi vỗ tôm chân trắng bố mẹ tiếp tục tăng trưởng ngay cả trong quá trình sinh sản. Nghiên cứu này cũng cho thấy tôm cái sau 48 ngày thí nghiệm trọng lượng tăng lên đáng kể ở tất cả các công thức thí nghiệm, tuy nhiên không có sự khác biệt về tăng trưởng ở các công thức. Việc sử dụng thức ăn tươi và thức ăn tổng hợp có hàm lượng protein cao trong quá trình nuôi vỗ đã góp phần thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của tôm.

Đối với chỉ tiêu sinh sản: Kết quả thí nghiệm này cho thấy một số chỉ tiêu sinh sản của lô thí nghiệm thay thế 25% thức ăn viên tổng hợp cao hơn lô sử dụng 100% thức ăn tươi sống như: tổng số Zoa1, tỉ lệ tôm giao vỹ đẻ trứng, số lần đẻ/ số tôm tham gia đẻ trứng. Tuy nhiên, khi thay thế 50% khẩu phần thức ăn sống bằng thức ăn công nghiệp đã làm giảm đáng kể (xấp xỉ 3 lần) tỉ lệ thành thục, số lần tham gia sinh sản, khả năng tái phát dục và tổng số Zoa1 được sản xuất ra so với tôm mẹ sử dụng 100% thức ăn sống. Cụ thể kết quả sinh sản của tôm bố mẹ ở các công thức thí nghiệm như sau:


Như vậy, thức ăn viên tổng hợp có hàm lượng dinh dưỡng cao trong nghiên cứu này có khả năng thay thế 25% khẩu phần thức ăn tươi sống (mực và hồng trùng) để nuôi vỗ tôm bố chân trắng mẹ mà không ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản của chúng. Thí nghiệm này cũng cho thấy tôm bố mẹ chấp nhận sử dụng thức ăn viên tổng hợp. Đây là dấu hiệu thuận lợi để mở ra khả năng cải tiến thức ăn viên tổng hợp về chất lượng dinh dưỡng của thức ăn tổng hợp nhằm cải tiến chất lượng sinh sản ở tôm nuôi.

Theo Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Phương Toàn và Vũ Văn In.

Đăng ngày 29/01/2020
Thảo @thao
Kỹ thuật

Lầm tưởng về tôm SPF

Trong ngành nuôi trồng thủy sản, khái niệm SPF (Specific Pathogen Free) đã trở nên quen thuộc, đặc biệt là khi nói đến tôm. Tuy nhiên, có nhiều lầm tưởng xoay quanh thuật ngữ này, gây hiểu lầm cho người nuôi tôm và ảnh hưởng đến quyết định quản lý và sản xuất. Dưới đây là một số lầm tưởng phổ biến về tôm SPF và sự thật đằng sau chúng.

Tôm thẻ
• 10:06 02/10/2024

Sau mưa bão khí độc trong ao thường tăng cao

Sau những cơn mưa bão, một hiện tượng phổ biến trong ao nuôi thủy sản là nồng độ các loại khí độc tăng cao, đặc biệt là khí NH3 (ammonia), H2S (hydro sulfide), và CO2 (carbon dioxide). Điều này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của các loài thủy sản nuôi như cá và tôm, làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm.

tôm thẻ
• 10:00 30/09/2024

Vai trò của rong và cá nuôi ghép với nuôi tôm theo hình thức sạch nước

Nuôi tôm theo hình thức sạch nước là một phương pháp thân thiện với môi trường và bền vững. Trong mô hình này, việc kết hợp với rong (tảo) và cá nuôi ghép đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và cải thiện chất lượng nước ao nuôi. Cả rong và cá đều có những chức năng cụ thể giúp tối ưu hóa quá trình nuôi tôm.

Cá rô phi
• 09:31 30/09/2024

Cải tạo ao nuôi tôm và gây màu

Cải tạo ao nuôi tôm và gây màu nước là hai bước cực kỳ quan trọng để chuẩn bị cho vụ nuôi tôm đạt hiệu quả cao. Quá trình này không chỉ tạo ra môi trường sống lành mạnh cho tôm mà còn giúp cân bằng hệ sinh thái trong ao, ngăn ngừa dịch bệnh và cải thiện chất lượng nước.

Ao nuôi
• 09:40 27/09/2024

Tảo Thalassiosira trong sản xuất giống tôm

Trong các loại thức ăn bổ sung, sử dụng vi tảo biển Thalassiosira làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng zoea của tôm cua biển được xem là hiệu quả tốt nhất.

Tảo Thalassiosira
• 21:30 02/10/2024

Lầm tưởng về tôm SPF

Trong ngành nuôi trồng thủy sản, khái niệm SPF (Specific Pathogen Free) đã trở nên quen thuộc, đặc biệt là khi nói đến tôm. Tuy nhiên, có nhiều lầm tưởng xoay quanh thuật ngữ này, gây hiểu lầm cho người nuôi tôm và ảnh hưởng đến quyết định quản lý và sản xuất. Dưới đây là một số lầm tưởng phổ biến về tôm SPF và sự thật đằng sau chúng.

Tôm thẻ
• 21:30 02/10/2024

Cá tra hao hụt giống 95%, nuôi thương phẩm 30 - 50%

Dự án thất thoát thực phẩm trong chuỗi giá trị cá cá tra (do Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia và Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế đồng tài trợ) cho kết quả nghiên cứu bước đầu rất đáng quan tâm. Thông tin từ Tiến sỹ Nguyễn Văn Kiền và Kim Alexander của dự án.

Cá tra
• 21:30 02/10/2024

Triển khai các biện pháp để khắc phục khuyến cáo của Đoàn thanh tra EU về xuất khẩu thủy sản

Từ ngày 24/9/2024 đến ngày 17/10/2024, Đoàn thanh tra của Tổng vụ Sức khỏe và Bảo vệ người tiêu dùng, Ủy ban châu Âu (DG SANTE) sẽ tổ chức thanh tra Chương trình giám sát dư lượng thuốc thú y, thuốc trừ sâu và các chất ô nhiễm trong thủy sản nuôi dùng làm thực phẩm tại Việt Nam để xuất khẩu vào EU.

Chế biến thủy sản
• 21:30 02/10/2024

Khác biệt và cách chăm sóc: Cá cảnh biển và cá cảnh nước ngọt

Nuôi cá cảnh hiện vẫn đang là một thú vui tao nhã, mang lại không chỉ niềm vui mà còn giúp cải thiện sức khỏe tinh thần, giảm stress. Dù là cá cảnh biển hay nước ngọt, mỗi loại đều có nét đẹp và yêu cầu chăm sóc riêng biệt. Và với nhu cầu nuôi cá cảnh biển và nước ngọt đang ngày càng tăng, người chơi cá cần nắm rõ sự khác biệt giữa hai loại cá này để chăm sóc chúng đúng cách.

cá cảnh
• 21:30 02/10/2024
Some text some message..