Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2015, về diện tích, cả nước thả nuôi được 608.754 ha (đạt 88,9% kế hoạch cả năm và bằng 95,4% so với cùng kỳ năm trước). Trong đó, tôm sú là 559.975 ha, đạt 95,7% kế hoạch năm 2015, tôm chân trắng là 48.780ha, đạt 48,8% kế hoạch năm 2015 và bằng 61,2% so với cùng kỳ 2014. Bên cạnh đó, sản lượng thu hoạch đạt 200.847 tấn, đạt 28,3% kế hoạch năm 2015 và bằng 76,4% so với cùng kỳ; trong đó, tôm sú là 97.150 tấn, tôm chân trắng là 103.698 tấn.
Thực tế nuôi tôm nước lợ 6 tháng đầu năm 2015 có sự thay đổi về tỷ lệ và hình thức nuôi tôm sú và tôm chân trắng. Trong đó, đối với hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh, tổng diện tích nuôi đạt 67.433 ha, chiếm khoảng 11,1% diện tích nuôi. Mùa vụ thả giống chậm hoặc thả không hết công suất, nhất là tôm thẻ chân trắng, mới chỉ đạt 20-50% tổng diện tích có khả năng nuôi. Đối với hình thức nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến có diện tích nuôi khá ổn định với khoảng 540.432 ha, chiếm 88,9% diện tích nuôi.
Về cơ cấu đối tượng nuôi có sự chuyển dịch so với năm 2013 -2014, người nuôi chuyển một phần diện tích nuôi tôm thẻ sang nuôi tôm sú trở lại, trung bình khoảng 20-30% diện tích chuyển sang nuôi tôm sú. Nguyên nhân chính do giá tôm sú năm nay ổn định và có lãi trong khi giá tôm thẻ giảm mạnh so với năm 2014.
Nhìn chung 6 tháng đầu năm 2015, diện tích và sản lượng nuôi tôm nước lợ chưa đạt về cả diện tích nuôi và sản lượng thu hoạch. Nguyên nhân do vụ nuôi tôm diễn ra trong bối cảnh bất lợi về thời tiết, không thuận lợi cho tôm phát triển; nắng nóng dẫn đến tình hình xâm mặn đến sớm hơn so với năm 2014, có thời điểm nhiệt độ lên đến 38 độ C, độ mặn trên 32%, mưa trái mùa, nguồn nước cấp bị ô nhiễm, làm cho dịch bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy, đường ruột, phân trắng,…phát triển, gây chết tôm nuôi trong thời gian dài và hiện tại chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả, làm giảm sản lượng tôm thu hoạch. Đồng thời, giá tôm nguyên liệu không ổn định, biến động theo hướng giảm thấp (giảm 20 - 30%) so với cùng kỳ, trong khi giá vật tư đầu vào tăng, làm tăng giá thành sản phẩm. Điều này làm cho người người dân và doanh nghiệp chưa mạnh dạn đẩy nhanh tiến độ thả giống với loại hình nuôi thâm canh và bán thâm canh, ảnh hưởng không nhỏ đến diện tích và sản lượng tôm nước lợ trong các tháng đầu năm 2015.
Nhằm tiếp tục thực hiện kế hoạch đề ra, theo Vụ Nuôi trồng thủy sản, trong 6 tháng cuối năm 2015, đối với tôm sú, duy trì ổn định diện tích và sản lượng, phát huy lợi thế nuôi tôm sú tại các vùng sinh thái đặc trưng tôm – rừng ngập mặn, tôm – lúa nhằm giữ lợi thế cạnh tranh và thị trường xuất khẩu tôm sú trên thế giới. Đối với tôm chân trắng, tiếp tục phát triển nuôi ở các vùng có lợi thế, kiểm soát tốt dịch bệnh nhằm gia tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu từ tôm thẻ chân trắng.
Trong đó, để đạt được mục tiêu đề ra, các giải pháp cần tập trung triển khai gồm: tăng cường thả nuôi tôm thương phẩm, trong thời gian tới diện tích thu hoạch và thả mới sẽ tăng nhanh, bởi vậy, cần triển khai công tác hỗ trợ chỉ đạo sản xuất nuôi trồng thủy sản cho các địa phương nhằm đảm bảo tiến độ về diện tích thả nuôi. Giám sát chặt chẽ tình hình nuôi tôm nước lợ, kiểm tra và hướng dẫn người nuôi tuân thủ quy trình kỹ thuật, lựa chọn và sử dụng giống tôm có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch và chất lượng tốt. Thực hiện ương gièo giống trước khi thả nuôi thương phẩm, thả nuôi với mật độ hợp lý, phát hiện nhanh dịch bệnh, xử lý kịp thời, khống chế không để dịch bệnh phát tán trên diện rộng, đặc biệt là nuôi thâm canh và bán thâm canh tôm chân trắng.
Bên cạnh đó, giá tôm nguyên liệu xuống thấp, ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ thả nuôi tôm nước lợ, vì vậy, cần cập nhật dự báo về nhu cầu và thị trường đối với sản phẩm tôm nuôi và thông báo tới người nuôi để kịp thời tổ chức sản xuất đạt kế hoạch năm 2015. Về quản lý giống, dự báo nhu cầu về con giống khi điều kiện thời tiết thuận lợi cho sản xuất để cơ sở, người sản xuất giống có kế hoạch sản xuất, cung cấp đủ giống đảm bảo chất lượng cho nhu cầu thả nuôi. Tập trung kiểm soát chất lượng và giá tôm giống, tăng cường phối hợp thanh tra, kiểm dịch tôm giống nhập tỉnh nhằm quản lý tốt chất lượng tôm giống đưa vào thả nuôi, tháo gỡ những khó khăn hiện nay và đảm bảo giống có chất lượng phục vụ cho vụ sản xuất mới.
Về công tác quan trắc môi trường, các tỉnh cần khẩn trương phê duyệt kế hoạch quan trắc môi trường phục vụ nuôi trồng thủy sản, xây dựng hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường và dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản tại các vùng nuôi tôm và vùng sản xuất giống tập trung. Cải tiến và áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến, đầu tư nâng cấp hạ tầng vùng nuôi, đặc biệt là hệ thống thủy lợi và xử lý nước, chất thải nuôi trồng thủy sản đối với những vùng nuôi trọng điểm, vùng nuôi tập trung.
Về phòng trừ dịch bệnh, hướng dẫn và khuyến cáo người nuôi tuân thủ các biện pháp phòng bệnh cho tôm nuôi, khuyến khích áp dụng các hình thức nuôi tôm tiên tiến để kiểm soát tốt môi trường, hạn chế dịch bệnh. Phối hợp tổ chức kiểm tra giám sát về công tác phòng, chống dịch bệnh, tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi; sử dụng thuốc, hóa chất và sản phẩm cải tạo môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho tập thể, cá nhân các hộ nuôi tôm thực hiện “3 không” – không giấu dịch, không xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường và không xả bỏ tôm chết, tôm bệnh ra môi trường nhằm hạn chế lây lan mầm bệnh./.