17 giờ ngày 18/7, cơ quan đại diện của ta ở Geneva đã nhận được thông tin chính thức rằng "tại Washington, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp theo hướng có lợi cho Việt Nam”.
Sự kiện đã chấm dứt 8 năm khởi động và theo đuổi vụ tranh chấp thương mại đầu tiên của Việt Nam tại WTO. Vụ kiện được phía Việt Nam chính thức đưa lên WTO từ năm 2010 và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nước tại WTO bởi sự dai dẳng của nó.
Bối cảnh phát sinh vụ kiện là vào những năm đầu 2000, khi đó, thực thi chính sách mở cửa và hội nhập mạnh mẽ, các doanh nghiệp tôm của ta đã thâm nhập và dần khẳng định vị thế của mình trên thị trường Mỹ.
Nhờ chất lượng và giá thành hợp lý, sản phẩm tôm đông lạnh của Việt Nam đã nhanh chóng giành được thị phần lớn tại thị trường Mỹ và đã có lúc doanh nghiệp tôm của Việt Nam như Minh Phú đã vươn lên trở thành nhà nhập khẩu tôm đông lạnh nước ngoài lớn nhất tại Mỹ.
Đứng trước thách thức cạnh tranh đến từ hàng nhập khẩu, các nhà sản xuất tôm nội địa nước Mỹ - Liên minh Tôm miền Nam (Southern Shrimp Alliance “SSA”), đã lên tiếng và gửi đơn khiếu nại đến Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy Ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) để yêu cầu khởi xướng vụ việc điều tra và áp thuế chống bán phá giá (CBPG) đối với sản phẩm tôm nhập khẩu nước ngoài đến từ 6 nước.
12 giờ ngày 30/12/2003, tức đúng Tết dương lịch năm 2004 (giờ Việt Nam), Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng điều tra áp thuế CBPG với tôm đông lạnh của Việt Nam. Một năm sau, tháng 2/2005, DOC chính thức ban hành lệnh áp thuế CBPG với tôm Việt Nam, cùng với 5 quốc gia khác là Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Brasil và Ecuador.
Ngay sau đó, Thái Lan và Ecuador, với vị thế là thành viên của WTO, đã gửi Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp vụ việc điều tra và áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ lên Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO và đã thành công. Còn chúng ta, lúc đó chưa thể kiện Mỹ vì chưa là thành viên của WTO. Nhưng ngay từ thời điểm này, ta đã nghiên cứu và có công tác chuẩn bị để sẵn sàng kiện Mỹ ngay khi có thể.
Ba năm sau khi gia nhập WTO, ngày 1/2/2010, ta đã đệ đơn chính thức kiện Hoa Kỳ với nội dung kiện là về phương pháp tính toán biên độ phá giá mà Hoa Kỳ áp dụng đối với sản phẩm tôm của ta. Vụ kiện do Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) và một số doanh nghiệp xuất khẩu tôm của ta phối hợp triển khai.
Sau hơn 1 năm xem xét, ngày 2/9/2011, Báo cáo của Ban Hội thẩm đã ra phán quyết yêu cầu Mỹ dỡ bỏ thuế CBPG với tôm Việt Nam. Hoa Kỳ không phản đối các phán quyết nêu trên của Ban Hội thẩm và đồng ý sẽ thực thi phán quyết trong khoảng thời gian là 10 tháng, tức là không muộn hơn ngày 2/7/2012. Tuy nhiên, phía Mỹ liên tục trì hoãn, không thực thi phán quyết.
Do vậy, ta đã tích cực sử dụng diễn đàn WTO để vận động về ngoại giao, mục đích nhằm buộc Mỹ - cường quốc luôn tuyên bố tuân thủ luật pháp quốc tế, phải thực thi nghiêm túc trách nhiệm thành viên WTO. Cần biết rằng hàng tháng tại DSB (Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO) có cuộc họp về việc giám sát thực thi tranh chấp, đây là cơ hội để các bên đưa ra yêu cầu, đề nghị với DSB trong việc thực thi phán quyết hoặc đưa ra các vụ kiện mới lên DSB.
Cơ quan đại diện Việt Nam tại WTO đã tận dụng diễn đàn này liên tục lên tiếng, thúc giục Mỹ thực thi các điều khoản theo phán quyết, thể hiện vai trò, trách nhiệm của một thành viên WTO. Bằng nhiều bài phát biểu và vận động khác nhau, ta đã thu hút được sự quan tâm của các nước, nhất là các quốc gia ASEAN.
Qua đó, đánh vào “hình ảnh” một cường quốc có trách nhiệm của Mỹ, tạo áp lực ngoại giao rất lớn lên quốc gia này. Đây cũng là một trong những cơ sở để Việt Nam và doanh nghiệp tôm của ta quyết tâm theo đuổi vụ kiện, với niềm tin rằng ta sẽ thắng và Hoa Kỳ cuối cùng sẽ phải thực thi phán quyết của DSB.
Cùng với việc đấu tranh trên diễn đàn ngoại giao đa phương, ta tiếp tục gây sức ép về pháp lý với Hoa Kỳ. Sau thời hạn chót tháng 7/2012 Mỹ không thực thi phán quyết của DSB, đến ngày 17/01/2013, ta đề nghị thành lập Ban hội thẩm trong khuôn khổ DSB (với mã vụ kiện DS429) để yêu cầu Mỹ thực thi phán quyết.
Đến ngày 22/4/2015, DSB đã thông qua phán quyết yêu cầu Hoa Kỳ phải: Dỡ bỏ lệnh áp thuế CBPG riêng rẽ cho một số doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong đó có Minh Phú; Sửa đổi kết luận của cuộc Rà soát cuối cùng lần thứ nhất năm 2010 để từ đó dỡ bỏ lệnh áp thuế CBPG tôm cho các doanh nghiệp Việt Nam; Hủy bỏ quy định về thuế suất toàn quốc trong các vụ điều tra CBPG liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam và Trung Quốc.
Để thắng kiện, ta đã thuê những luật sư có kinh nghiệm của chính Mỹ và triển khai cuộc chiến pháp lý trên hai mặt trận: tại Geneva và Washington. Thực chất toàn bộ vụ kiện được tiến hành trên đất Mỹ, theo luật của Mỹ vì cái mà ta kiện chính là kiện Mỹ, qua việc áp dụng luật của mình, đã vi phạm quy định về chống bán phá giá của WTO.
Để đảm bảo được thắng lợi, ta đã thảo luận với các luật sư và xác định đây là một quá trình tố tụng kéo dài, do vậy, cần “trường kỳ kháng chiến”, đánh đồng thời tại WTO và kiện cả chính quyền Mỹ tại quốc gia của họ. Theo tư vấn, để có thể thu về được khoản tiền thuế (quá cao) mà Minh Phú đã phải nộp khi đưa tôm vào Mỹ, công ty này đã đâm đơn kiện chính quyền Mỹ.
Mục đích của việc khởi kiện tại Washington là nhằm ngăn chặn việc phía các cơ quan chức năng Mỹ thanh khoản các lô hàng nhập khẩu của Minh Phú vào Mỹ, đặt số tiền đã nộp vào trạng thái bị treo trong suốt nhiều năm. Đây chính là cơ sở để ta đòi lại được số tiền mà Mỹ vô lý áp đặt với sản phẩm tôm của Việt Nam sau khi có thỏa thuận ký hôm 18/7 vừa qua.
Theo một số chuyên gia pháp lý, vụ kiện của Việt Nam với Hoa Kỳ đã đạt được thành công ngoài mong đợi. Vì nếu so sánh với các vụ kiện tương tự, như của Mexico hay Canada hai thành viên, đối tác thương mại quan trọng của Mỹ trong Khối thị trường chung Bắc Mỹ, thì hai nước này đều không lấy lại được khoản tiền thuế mà doanh nghiệp đã phải nộp.
Ngoài ra, Canada đã theo kiện Mỹ suốt 31 năm trước khi giành được thắng lợi. Còn với trường hợp vụ kiện xi măng của Mexico, Mỹ vẫn áp đặt hạn ngạch nhập khẩu vào từng bang sau khi DBS ra phán quyết giành phần thắng cho quốc gia này.
Đánh giá về thỏa thuận mà Việt Nam và Mỹ mới đạt được, Đại sứ Đại diện Phái đoàn Việt Nam tại Geneva Nguyễn Trung Thành khẳng định thỏa thuận song phương về giải quyết vụ kiện “là kết quả của một quá trình đấu tranh và cả hợp tác bền bỉ, kiên trì, kết quả của những trao đổi thẳng thắn, xây dựng và có thiện chí, đáp ứng được sự trông đợi của hai bên.
Đặc biệt nó đã giúp khai thông được dòng hàng hóa của Việt Nam, nhất là tôm đông lạnh, sang Mỹ trong thời gian tới, và không nghi ngờ gì sẽ củng cố hơn nữa cho các chương trình hợp tác thương mại giữa hai nước. Đồng thời thỏa thuận là một sự khích lệ cho các doanh nghiệp Việt Nam đã đang khai thác hiệu quả thị trường Mỹ, phù hợp với các thỏa thuận song phương và đa phương mà hai bên là đã ký kết”.