Thả tôm đúng thời điểm
Bên cạnh khuyến cáo lịch thời vụ của các sở ngành địa phương, bà con nên thả tôm khi thời tiết ấm hẳn, nhiệt độ dao động giữa ngày và đêm thấp để đảm bảo tỷ lệ sống, sức khỏe và tăng trưởng của tôm nuôi. Tránh thả tôm khi thời tiết đầu vụ có nhiệt độ thấp như hiện nay. Thả nuôi theo lịch thời vụ sẽ hạn chế được những rủi ro về con giống, thời tiết làm ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nuôi và ảnh hưởng đến các hộ nuôi lân cận khi có bệnh xảy ra.
Chọn tôm giống
Chất lượng tôm giống hiện nay vẫn chưa ổn định và khó kiểm soát, vì vậy, người nuôi nên lựa chọn những đại lý, cơ sở có uy tín, hoặc nên tập hợp lại với nhau thành nhóm và cử đại diện tiến hành đến trại sản xuất tự lấy mẫu tôm, gửi mẫu phân tích PCR để loại bỏ mẫu tôm nhiễm bệnh. Tuyệt đối không thả tôm chưa qua xét nghiệm.
Áp dụng quy trình nuôi an toàn sinh học
Nhằm giảm bệnh cho tôm nuôi, giảm sử dụng hóa chất kháng sinh, người nuôi cần áp dụng quy trình phòng bệnh tổng hợp như: Phải có ao lắng để dự trữ nước dự phòng, không nên thả mật độ quá cao, mỗi năm chỉ nên nuôi 1 vụ để việc cải tạo và xử lý ao được triệt để, đồng thời có thời gian dài để cách ly mầm bệnh và đảm bảo tính bền vững cho cả vùng nuôi. Ngoài ra, cần kiểm soát tốt các yếu tố môi trường; quản lý thức ăn chặt tránh dư thừa, sử dụng men vi sinh hợp lý để hạn chế ô nhiễm hữu cơ, hạn chế tảo nở hoa làm suy thoái môi trường ao nuôi khiến tôm dễ nhiễm bệnh; bổ sung chất tăng cường sức đề kháng cho tôm.
Xử lý ao nuôi
Bà con cần phải sên vét lại ao nuôi, loại bỏ lớp bùn đen ra khỏi ao (đối với ao cũ). Sau đó, tiến hành bón vôi CaO hoặc CaCO3 với liều lượng khuyến cáo từ 700 - 1.000 kg/ha (pH đất > 6), phơi ao 7 - 10 ngày để xử lý hết mầm bệnh của vụ nuôi trước. Trong quá trình lấy và xử lý nước: Bà con cần có ao lắng với tỷ lệ khoảng 30% tổng diện tích chủ động việc cấp nước vào ao nuôi. Nước cấp vào ao nuôi phải qua túi lọc và xử lý thông qua ao lắng bằng cách để nước 3 - 5 ngày kết hợp với quạt nước để trứng giáp xác nở hết, sau đó tiến hành diệt tạp bằng saponin, diệt khuẩn, virus trong ao bằng Chlorine Formol hoặc thuốc tím (KMnO4).
Việc gây màu nước: Bà con có thể sử dụng các sản phẩm có chứa các thành phần chủ yếu như các vi sinh vật có lợi (nhóm Bacillus subtilis, Lactobacillus...), các vitamin, axit amin thiết yếu theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Đối với những ao khó gây màu có thể sử dụng các chế phẩm sinh học kết hợp với bón phân urê (2 - 3 kg/1.000 m3), bột cá (0,5 - 1 kg/1.000 m3) liên tục vài ngày đến khi ao nuôi đạt các tiêu chuẩn như độ trong (30 - 40 cm), pH (7,5 - 8,5), độ kiềm (80 - 120 ppm), khí độc (< 0,1 ppm)... tạo cho ao nuôi có màu xanh lục, vàng khuê thì có thể tiến hành thả tôm giống.
>> Để đảm bảo vụ nuôi 2013 thắng lợi: Cần tập trung tối đa nguồn lực nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân gây bệnh; tổng kiểm tra chất lượng chế phẩm sinh học trên thị trường; kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống, rà soát điều kiện sản xuất các trại tôm giống; tổ chức lại hệ thống thống kê và dự báo…