Cá cóc

: Soldier river barb
: Cyclocheilichthys enoplos Bleeker, 1850
:
Phân loại
Cyclocheilichthys enoplosBleeker, 1850
Ảnh Cá cóc
Đặc điểm sinh học

Thân thon, dài, dẹp bên. Vảy tròn phủ khắp thân, đầu không có vảy. Đầu nhỏ, hơi dẹp bên. Mõm hơi tù. Miệng dưới, hẹp ngang. Rạch miệng gần như nằm ngang, Môi trơn, rãnh sau môi trên liên tục, rãnh sau môi dưới gián đoạn ở giữa nhưng rất ít.

Có hai đôi râu, râu mép và râu mõm, Hai đôi râu này tương đương nhau và tương đương với 1/2 đường kính mắt. Mắt to, màng mờ chung quanh mắt phát triển, nằm lệch về nửa trên của đầu và gần chót mõm hơn gần điểm cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt phẳng. Gốc vây lưng và vây hậu môn có một hàng vảy phủ lên, gốc vây đuôi có 4 hàng, vảy nách gốc vây bụng hình mũi mác và dài hơn gốc vây bụng.

Đường bên hoàn toàn, phần sau nằm trên trục giữa thân và chấm dứt tại điểm giữa gốc vây đuôi, có một số vảy cảm giác trên đường bên ống cảm giác chẻ hai. Vây đuôi chẻ hai, rãnh chẻ sâu hơn 1/2 chiều dài vây đuôi. Mặt lưng của thân và đầu hơi xám nhạt, mặt bên và mặt bụng màu trắng bạc. Nắp mang màu vàng nhạt. Mép sau vây lưng, vây đuôi màu đen. Vây ngực, vây bụng, vây hậu môn màu trắng trong.

Ngoài tự nhiên, cá cóc có kích thước lớn, có thể dài tới 80 cm, nặng khoảng 10 kg.

Phân bố

Giava, Xumatra, Thái Lan, Lào. ở Việt Nam gặp nhiều ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Tập tính
Sinh sản
Hiện trạng

Mùa vụ khai thác: Quanh năm      
Kích thước khai thác: 30 - 45cm, lớn nhất 75cm
Ngư cụ khai thác: Lưới, mành, rùng, đăng, vó...    
Dạng sản phẩm: ăn tươi.

Thịt cá cóc thơm ngon rất được ưa chuộng, bán 60.000 - 100.000 đồng/kg, nên cá luôn bị săn bắt ráo riết, đến nay gần như cạn kiệt. Cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos, thuộc họ cá chép Cyprinidae), hiện diện ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Indonesia và ở sông Tiền, sông Hậu của Việt Nam. Cá thích nghi với điều kiện nước chảy và có tập tính di cư sinh sản. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cá cóc thường được khai thác quanh năm ở sông Tiền và sông Hậu bằng câu, lưới, chài, đáy và đóng chà ven sông.

Cá cóc đã được nuôi ghép trong ao và bè với các loài cá khác. Cá có tốc độ tăng trưởng từ chậm đến trung bình. Trước đây cá cóc chưa được nuôi phổ biến do nguồn cá giống phụ thuộc vào việc đánh bắt từ tự nhiên, với sức chịu đựng rất kém, nhất là khi vận chuyển đi xa. Cá yếu và dễ chết khi rời khỏi môi trường nước chảy (sông). Tuy vậy sau khi thuần dưỡng cá cũng thích nghi được với điều kiện nước tĩnh hoặc sống được trong bè nuôi với mật độ cao như cá tra, cá he, rô phi…

TS. Phạm Văn Khánh, giám đốc Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ cho biết, hiện nay nghề nuôi cá nước ngọt ngày càng phát triển, nên nhu cầu về cá giống ngày càng đa dạng. Cá cóc là một trong những loài cá có thể nuôi trong ao, bè, đăng quầng. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo để sản xuất giống cá cóc nhằm bổ sung giống loài mới vào cơ cấu đàn cá nuôi là việc làm cần thiết, đồng thời còn góp phần gìn giữ nguồn gen loài cá đang ngày càng trở nên hiếm hoi.

Tài liệu tham khảo
  1. http://www.fishbase.org/summary/speciessummary.php?id=14495
  2. Theo Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ - AG, 27/9/2006
Cập nhật ngày 28/07/2012
bởi PHONG
Xem thêm