EMS là một bệnh mới trên tôm, bệnh làm cho sản lượng tôm nuôi toàn cầu giảm hơn 20% so với mức dự kiến vào năm 2013.
Nghiên cứu EMS đầu tiên được tài trợ bởi GAA, các trường đại học và các tổ chức chính phủ ở châu Á và Ngân hàng Thế giới xác định nguyên nhân chính là do một dòng khuẩn Vibrio tương đối phổ biến, trong điều kiện nhất định đã sinh sản và tạo ra một độc tố gây tổn thương gan và các cơ quan tiêu hóa của tôm non làm cho tôm chết sau 20 đến 30 ngày trong ao nuôi.
Với kết quả nhận dạng này, bộ kiểm tra dựa trên DNA đã được phát triển ở Nhật Bản và Mỹ và đang được thương mại hóa.
Nhưng ở giai đoạn thứ hai, hiện đang được tổ chức bởi GAA và các tổ chức khác được chuyển giao nhằm thực hành tốt nhất cho các trang trại nuôi tôm ở các nước bị ảnh hưởng để người dân có sự tự tin phát triển nuôi tôm thêm một lần nữa.
Trong cuộc họp, Chamberlain xem xét diễn biến EMS trên một số quốc gia vào mùa xuân 2014.
Trung Quốc
Năm khu vực đang phát triển đều cho thấy tỷ lệ EMS ở mức trung bình; trong khi ở hai khu vực sông Pearl và Zhanhiang ở tỉnh miền nam Quảng Đông, tỷ lệ EMS trung bình ở mức cao.
Một trong những khó khăn lớn ở Trung Quốc là các bệnh khác hầu hết đều nhầm lẫn bởi EMS.
Việt Nam
Chính giá cao đã thu hút người nuôi nuôi với mật độ cao hơn mức hiện tại, dẫn đến việc mở rộng nông nghiệp và các khu vực nuôi bất chấp sự hiện diện của EMS. Giá giảm, tỷ lệ nuôi ở Việt Nam giảm theo.
Thái Lan
Thêm một lần nữa Thái Lan gặp các vấn đề nghiêm trọng bởi EMS. Tại nhiều trang trại, tỷ lệ thất thoát chiếm hơn 30% trong 40 ngày đầu tiên và trong vòng ba tháng tới thời tiết mát mẻ đã không giúp cải thiện sản xuất. Kết quả là, sản xuất quý I chỉ đạt khoảng 30.000 tấn, giảm so với 100.000 tấn vào năm ngoái.
Hiện ở Việt Nam, giá giảm; một số người nuôi không chấp nhận rủi ro và họ không được thả giống nuôi.
Malaysia
Các khu vực sản xuất hầu hết giảm, nhưng các trang trại lớn do Agrobest quản lý thì nhận thấy kết quả cải thiện dần.
Mexico
EMS tiếp tục được báo cáo trong Sinaloa và trong một số trang trại ở Sonora. Tuy nhiên, các trang trại mới đang được bắt đầu tại Tampico, Campeche, Tabasco và Yucatan, bao gồm cả hai phía nam và một số trên vịnh Mexico. Các trang trại phía Bắc đã được phân lập từ những vấn đề EMS và tổng sản lượng dự kiến sẽ đạt khoảng 55.000 đến 60.000 tấn (đầu vào).
Ấn Độ, Indonesia và Ecuador hiện là nhà sản xuất tôm lớn toàn cầu, mỗi quốc gia đều đang gia tăng đáng kể sản xuất.
Báo cáo gần đây từ Ấn Độ thu được kết quả tích cực. Kiểm tra tại các trại nuôi tôm ở Andhra Pradesh và Tamil Nadu cho thấy "không có dấu hiệu của EMS". Các xét nghiệm này được giám sát bởi Giáo sư Lightner của trường Đại học Arizona, người đã giúp khám phá ra tác nhân gây bệnh và phát triển bệnh dựa trên kiểm tra DNA.
Nghiên cứu dịch tễ học sẽ là bước tiếp theo trong kiểm soát EMS trên phạm vi toàn cầu để xác định việc thực hành tốt nhất với các trang trại nuôi, các trại giống và tôm bố mẹ và truyền tải những phát hiện cho các trung tâm sản xuất chính.
Giai đoạn này sẽ được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới thuộc dự án Allfish, ngành công nghiệp hải sản của Quỹ nghiên cứu NFI và công ty CP Prima của Indonesia. GAA sẽ cung cấp cho quản lý dự án.
Giai đoạn đầu tiên sẽ là một cuộc khảo sát toàn diện của các trang trại trong nước bị ảnh hưởng để xác định các trang trại đã trải qua EMS và liệu các tác động của chúng là thấp, trung bình hoặc cao.
Sau đó kết quả của cuộc khảo sát này sẽ được biên dịch và kiểm toán viên BAP sẽ ghé thăm các trang trại được lựa chọn để xác nhận xu hướng cho kết quả tích cực và tiêu cực. Ngôn ngữ của nghiên cứu sẽ được biên dịch sang tiếng Hoa, Thái, Việt, Bahasa Malayia, Tây Ban Nha và một số phương ngữ Ấn Độ.
Sau đó trang trại được lựa chọn sẽ đi xét nghiệm chẩn đoán để xác nhận chiều sâu và định lượng thực hành tốt nhất và chúng sẽ được trình bày tại hội nghị GAA GOAL ở Việt Nam vào ngày 7 và ngày 10 tháng 10.
Một Ủy ban gồm nhiều chuyên gia đã được thành lập để giám sát dự án và đã đưa ra một số ý tưởng về EMS.
Đầu tiên: độc tính có nhiều chủng với mức độ khác nhau.
Thứ hai: EMS thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác như đốm trắng hoặc Taura.
Thứ ba: EMS được thiết lập trong môi trường nên rất khó để kiểm soát vì nó được truyền qua đường ăn uống, tôm bị nhiễm bệnh từ trong ao. Giảm bùn ao là một trong những cơ chế kiểm soát tiềm năng.
Thứ tư: kháng sinh không có hiệu quả. Theo đánh giá nhạy cảm, mầm bệnh EMS đã phát triển sức đề kháng với hầu hết kháng sinh.
Thứ năm: một số phụ gia thức ăn có thể có một tác dụng bảo vệ tích cực.
Thứ sáu: một chương trình nhân giống cá bố mẹ được khuyến cáo chuyên sâu, nơi bố mẹ được tiếp xúc với EMS và cá thể sống sót tốt nhất được lựa chọn để tái tạo lại. Một phần của việc này là để xác định hệ số di truyền kháng EMS.
Thứ bảy: thực hành sản xuất giống - sử dụng các loại thực phẩm địa phương như giun biển và hàu có thể có thể lây nhiễm bệnh lên bố mẹ. Ngoài ra một số tôm địa phương có thể không có triệu chứng. Vấn đề an toàn sinh học của các trại giống sẽ phải được tăng lên.
Thứ tám: ở cấp trang trại, sử dụng bioflocs để thay đổi thiết lập hàng loạt các vi khuẩn cùng với tiềm năng nuôi ghép cá rô phi và điều khiển thức ăn và giảm bùn có thể có một kết quả tích cực.
Cuối cùng, GAA và Ngân hàng Thế giới đang làm việc cùng nhau để xác định một số vấn đề thường gặp đối với dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản bao gồm các dịch ISA ở Chile tương tự như EMS.
Một số vấn đề chung cho nhiều dịch bệnh bao gồm giữa các trang trại với nhau; phong trào nuôi động vật không được kiểm soát, thiếu các quy trình vệ sinh và chia sẻ thông tin kém . Điều này cho thấy quản lý khu vực bao gồm lựa chọn địa điểm trang trại thích hợp và từng bước kiểm soát sản xuất về vận chuyển sẽ đi một chặng đường dài để bảo đảm sản xuất tôm bền vững.
Tất cả có vẻ như việc gia tăng sản xuất trong các lĩnh vực không bị ảnh hưởng bệnh như Ấn Độ, Indonesia và Ecuador sẽ giảm đáng kể tình trạng thiếu hụt nguồn cung cấp kinh nghiệm vào năm ngoái nhưng về lâu dài chiến lược quản lý bệnh hữu hiệu có thể được áp dụng trên quy mô toàn quốc sẽ cần phải được thông qua, giống như khi chúng ta can thiệp virut đốm trắng hay sản xuất tôm nuôi trong đầu những năm 1990.