Nhận diện hiện tượng tôm không vào nhá ăn
Tôm là động vật biến nhiệt, nghĩa là nhiệt độ cơ thể của chúng thay đổi theo môi trường xung quanh. Điều này khiến chúng có tốc độ trao đổi chất cao hơn so với động vật hằng nhiệt như động vật có vú và chim. Do đó, tôm cần nhiều năng lượng hơn để duy trì hoạt động sống, dẫn đến nhu cầu thức ăn cao hơn. Bên cạnh đó, hệ tiêu hóa của tôm tương đối ngắn so với kích thước cơ thể. Điều này khiến thức ăn di chuyển qua hệ tiêu hóa nhanh hơn, dẫn đến việc tôm cần ăn nhiều hơn để hấp thu đủ chất dinh dưỡng.
Tuy nhiên, tồn tại một số trường hợp tôm ăn không lên mồi, người nuôi cần lưu ý một số biểu hiện cụ thể:
- Tôm ăn yếu, chỉ lác đác vài con xuất hiện ở nhá ăn, trong khi trước đó vẫn ăn mạnh.
- Sau 30–60 phút cho ăn, thức ăn trong nhá còn dư nhiều.
- Phân tôm loãng, nhạt màu, ruột tôm rỗng (quan sát khi tôm nhảy lên bờ hoặc qua mẫu lưới).
- Tôm nổi đầu vào sáng sớm, bơi yếu hoặc ẩn trong góc ao, đáy ao.
- Tăng trưởng chậm, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) tăng.
Hiểu đúng nguyên nhân để không xử lý sai hướng
Sốc môi trường nước
Tôm là động vật biến nhiệt, rất nhạy cảm với thay đổi môi trường. Khi điều kiện nước thay đổi đột ngột, quá trình tiêu hóa bị ảnh hưởng, dẫn đến giảm thèm ăn và giảm khả năng hấp thu thức ăn
- pH dao động > 0.5 đơn vị/ngày gây sốc hệ tiêu hóa, giảm bắt mồi.
- Oxy hòa tan (DO) thấp < 4 mg/l, đặc biệt lúc sáng sớm, tôm nổi đầu, giảm hoạt động.
- Amonia (NH₃) > 0.1 mg/l, Nitrite (NO₂) > 0.25 mg/l, gây ngộ độc máu, ức chế men tiêu hóa.
- Nhiệt độ tăng cao > 33°C hoặc giảm đột ngột < 26°C, làm tôm giảm trao đổi chất.
Tôm bước vào hoặc vừa trải qua giai đoạn lột xác
- Tôm chuẩn bị lột xác thường ăn yếu, ẩn mình và giảm hoạt động.
- Sau lột nếu thiếu khoáng (Ca, Mg, K), tôm dễ lột không hoàn chỉnh, dẫn đến suy nhược, nằm đáy, chán ăn.
Vì vậy cần theo dõi tần suất lột xác bằng cách kiểm tra vỏ lột, độ trong gan tụy, và độ cứng vỏ.
Mật độ nuôi dày – thiếu oxy – cạnh tranh nguồn sống
Khi mật độ vượt ngưỡng chịu tải (thường > 250–300 con/m² ở mô hình truyền thống, > 500 con/m² với biofloc), sự cạnh tranh oxy, không gian sống gia tăng.
Oxy thiếu sẽ giảm chuyển hóa thức ăn, tôm ăn kém, dễ mắc bệnh.
Nhiễm bệnh – vi khuẩn – ký sinh trùng
Một số bệnh lý phổ biến gây giảm ăn:
Bệnh | Tác nhân | Triệu chứng chính |
| EMS/Hoại tử gan tụy cấp | Vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus | Gan tụy teo, ruột đứt khúc, phân trắng |
| Phân trắng | Vi khuẩn, EHP, ký sinh trùng | Phân loãng, ruột rỗng, ăn yếu |
| Đốm trắng, đầu vàng, vi bào tử trùng | Virus, Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) | Tôm chậm lớn, ruột teo, không vào nhá |
Chất lượng thức ăn – chế độ cho ăn sai
Sử dụng thức ăn bị ẩm mốc, hết hạn, chứa protein khó tiêu (do bảo quản kém).
Thay đổi thức ăn hoặc cỡ viên quá nhanh khiến tôm không thích nghi.
Lịch cho ăn không phù hợp (cho ăn lúc trời nắng gắt, nước thiếu oxy) cũng khiến tôm không tiêu hóa được.
Cho tôm ăn đúng giờ, đúng liều lượng và phù hợp với kích thước để tránh tình trạng tôm ăn không lên mồi. Ảnh: biogency.com.vn
Chủ động can thiệp đúng cách: Đừng để tôm “chán ăn” kéo dài
Ổn định môi trường nước
- Duy trì pH từ 7.5–8.2; tránh dao động quá 0.3 đơn vị/ngày.
- DO tối ưu ≥ 5 mg/l – bổ sung sục khí, quạt nước, tăng cường oxy đáy.
- NH₃, NO₂: Dưới ngưỡng cho phép bằng cách:
- Giảm lượng thức ăn, hạn chế dư thừa.
- Sử dụng chế phẩm vi sinh (Bacillus spp.), zeolite, thay nước 10–20% nếu cần.
Cung cấp khoáng đầy đủ và đúng thời điểm
Bổ sung khoáng (Canxi, Magie, Kali, Natri, Silic) định kỳ 3–5 ngày/lần, tăng cường khi có dấu hiệu tôm lột xác nhiều.
Có thể tạt khoáng xuống ao kết hợp trộn vào thức ăn (đặc biệt giai đoạn 35–60 ngày tuổi).
Kiểm soát và điều chỉnh mật độ
Định kỳ kiểm tra mật độ thực tế (kéo chài, cân mẫu).
Nếu mật độ vượt tải, cân nhắc tách ao, giảm tải bằng siphon tôm nhỏ, hoặc tăng cường hệ thống sục khí.
Xét nghiệm, xử lý bệnh sớm
Khi tôm bỏ ăn kèm dấu hiệu gan tụy bất thường, phân trắng, ruột rỗng → lấy mẫu xét nghiệm EHP, EMS, Vibrio.
Trộn thảo dược (tỏi, cỏ sả, cam thảo), vitamin C, men tiêu hóa và sản phẩm tăng miễn dịch vào thức ăn.
Không tự ý dùng kháng sinh nếu chưa có kết quả xét nghiệm.
Quản lý thức ăn khoa học
Sử dụng thức ăn uy tín, kiểm tra độ nổi, độ tơi, độ ẩm trước khi cho ăn.
Khi chuyển loại thức ăn, nên thực hiện trong 3–5 ngày, tăng dần tỉ lệ.
Cho ăn vào thời điểm nước ổn định (sáng sớm, chiều mát), tránh khi pH cao hoặc nhiệt độ > 33°C.
Chủ động từ đầu – Giải pháp phòng ngừa bền vững cho ao nuôi
Theo dõi nhá ăn kỹ lưỡng mỗi cữ, điều chỉnh lượng cho ăn hằng ngày.
Lên lịch kiểm tra nước ao bằng test kit ít nhất 2 lần/ngày (sáng – chiều).
Sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, tạo hệ vi sinh ổn định trong ao.
Tập huấn kỹ thuật cho người nuôi, cập nhật kiến thức phòng trị bệnh, quản lý dinh dưỡng, quản lý môi trường.
Có sổ ghi chép hàng ngày để theo dõi diễn biến và xử lý kịp thời.
Nhá ăn là “bảng chỉ đường” cho sức khỏe ao nuôi – Đừng để dấu hiệu tôm bỏ ăn bị bỏ qua. Ảnh: biogency.com.vn
Từ quan sát nhỏ đến bảo vệ cả vụ nuôi
Tôm không vào nhá ăn là một trong những dấu hiệu đầu tiên phản ánh tình trạng bất ổn trong hệ thống nuôi. Việc xử lý hiệu quả phụ thuộc vào khả năng quan sát tinh tế, phân tích đúng nguyên nhân, và áp dụng kịp thời các giải pháp chuyên môn. Người nuôi cần chủ động theo dõi – phòng ngừa – khắc phục để bảo vệ thành công vụ nuôi, nhất là trong điều kiện mật độ cao, thời tiết biến động và nguy cơ bệnh tật ngày càng phức tạp.