Những trang trại nuôi thủy sản hiệu quả cao
Các trang trại nuôi thủy sản đã thu hút và tạo việc làm cho đông đảo người dân lao động. Đến nay toàn tỉnh có gần 300 trang trại thủy sản đạt tiêu chí của Bộ NN và PTNT, phát triển mạnh ở vùng ven biển, hình thành các vùng nuôi tập trung có quy mô khá lớn như vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở các xã: Hải Chính, Hải Lý (Hải Hậu); Bạch Long, Giao Phong (Giao Thủy); vùng nuôi cá bống bớp ở Nam Điền, Nghĩa Lợi, Nghĩa Thắng (Nghĩa Hưng)…
Nhiều trang trại điển hình đạt hiệu quả kinh tế cao như trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng của ông Hoàng Văn Minh, Thị trấn Rạng Đông (Nghĩa Hưng) trung bình mỗi năm thu lãi 1,5 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho hơn chục lao động; trang trại nuôi cá bống bớp thương phẩm của anh Nguyễn Văn Phương, đội 2, nông trường Bạch Long (Giao Thủy) với quy mô 4ha, trung bình mỗi năm thu lợi nhuận trên 1 tỷ đồng…
Với quy mô sản xuất lớn nên các trang trại có điều kiện đầu tư đồng bộ từ sản xuất giống, kỹ thuật công nghệ... Nhiều trang trại đã từng bước làm chủ được công nghệ sản xuất giống tại chỗ, trong đó có các giống hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm sú, cá bống bớp, hàu… nên đảm bảo chủ động trong kế hoạch và kiểm soát sản xuất.
Trang trại sản xuất giống ngao và hàu của anh Nguyễn Văn Lương, xóm 1, xã Hải Phúc (Hải Hậu) có diện tích hơn 10 nghìn m2 với 14 bể và 7 ao phục vụ cho quá trình sản xuất giống ngao và hàu. Để có được cơ ngơi như hiện nay anh đã tích cực học tập, tích lũy kinh nghiệm và đầu tư hơn 2 tỷ đồng kiến thiết cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, yêu cầu kỹ thuật mà Sở NN và PTNT đề ra. Anh còn mời kỹ sư thủy sản về hướng dẫn sản xuất con giống đảm bảo hiệu quả và kỹ thuật. Trung bình mỗi năm, trại giống của anh Lương thu lãi trên 1 tỷ đồng từ ngao giống và trên 400 triệu đồng từ hàu giống. Bên cạnh đó, nhiều trang trại tổng hợp như trang trại của anh Hoàng Văn Dũng, xóm 2, xã Yên Hưng (Ý Yên) có quy mô 7 mẫu chăn nuôi vịt, cá; trang trại của anh Phạm Ngọc Yên, xóm 17, xã Hải Long (Hải Hậu) có 3 ao nuôi cá nước ngọt truyền thống, gần 400 con ngan và hơn 700 con vịt siêu trứng...
Đến thăm trang trại của ông Nguyễn Văn Năm, xã Phương Định (Trực Ninh) chúng tôi như bị cuốn vào khí thế lao động sản xuất hăng say của gia đình ông. Gắn bó với nông nghiệp, xây dựng kinh tế trang trại đã hơn chục năm nay, ông luôn trăn trở tìm cách phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững, giảm thiểu chi phí đầu vào. Với điều kiện có sẵn diện tích mặt nước, ông đã tận dụng khu vực xung quanh ao để nuôi gà, vịt, lợn. Phân vịt, gà, lợn và các loại phụ phẩm từ nông nghiệp được sử dụng làm thức ăn nuôi cá, giảm phần nào chi phí thức ăn. Hiện ông Năm có hơn 5 mẫu ao nuôi cá nước ngọt truyền thống, 500 con vịt, 200 con gà và 20 con lợn. Bình quân ông thu hoạch 15-20 tấn cá/năm, đạt thu nhập 700-800 triệu đồng sau khi đã trừ chi phí từ nuôi cá, nuôi vịt, gà, lợn. Ông tâm niệm: “Tôi không chạy theo phong trào mà tôi luôn tìm hiểu và nắm chắc nhu cầu thực tế của thị trường”. Ngoài ra ông còn tạo được sự liên kết trong tiêu thụ sản phẩm với các đầu mối uy tín trên địa bàn đảm bảo có thể trao đổi thỏa thuận trên điện thoại về giá khách buôn đến tận nơi thu mua.
Khó khăn trang trại thủy sản
Vẫn còn nhiều trang trại nuôi thủy sản quy mô lớn nhưng áp dụng phương pháp sản xuất truyền thống, chưa chú ý áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao, giá bán thấp. Hơn nữa tình trạng người nuôi bị động trước thị trường và chịu cảnh thương lái “định đoạt” giá trị của sản phẩm vẫn khá phổ biến.
Để ngành thủy sản của tỉnh nói chung và trang trại nuôi thủy sản nói riêng phát triển mạnh mẽ, ngoài việc thực hiện tốt quy hoạch vùng nuôi và phân bổ hợp lý theo từng đối tượng nuôi, thời gian tới, tỉnh tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp đầu tư, khuyến khích các tổ chức tín dụng có cơ chế vay vốn ưu đãi hơn về số lượng và thời hạn cho vay để các trang trại có điều kiện đầu tư mở rộng quy mô, tăng năng suất; đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất ở các trang trại nuôi thủy sản; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật, kiến thức quản lý sản xuất, kinh doanh cho các chủ trang trại; tăng cường hình thức hợp tác trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra hoạt động sản xuất của các trang trại, đảm bảo các chủ trang trại nuôi thủy sản thực hiện đầy đủ trách nhiệm công tác bảo vệ môi trường, tạo ra những sản phẩm thủy sản sạch, đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, có giá trị kinh tế cao.