Những hiểu về nấm men bên trong đường ruột cá

Bài viết cung cấp cái nhìn tổng thể về nấm men trong ruột cá và vai trò của nấm men với cá.

Những hiểu về nấm men bên trong đường ruột cá
Những hiểu về nấm men bên trong đường ruột cá

Nghiên cứu đầu tiên phân lập nấm men từ cá suốt (Atherinopis affinis littoralis) và cá thu ở Thái Bình Dương (Trachurus symmetricus) đã được chứng minh bởi van Uden và Castelo Branco (1963).

Kể từ đó, các nấm men đã được xác định là một phần của hệ vi sinh vật bình thường ở cá; đôi khi mật số cao được quan sát thấy ở cá khoẻ mạnh, nhưng dữ liệu có sự khác biệt về số lượng khuẩn lạc và sự đa dạng về phân loại (Gatesoupe 2007). Tuy nhiên, tài liệu về vai trò của men trong sức khỏe và dinh dưỡng cá là rất hiếm. Nấm men được phân bố rộng rãi trong một số môi trường tự nhiên bao gồm cả nước ngọt và nước biển.

Men trong đường ruột, men đường ruột cá, nấm men với cá, hiểu biết nấm men

Nấm men biển tham gia vào một số quá trình sinh thái trên biển, đặc biệt là ở môi trường cửa sông và ven bờ, chẳng hạn như phân hủy chất nền thực vật, tái chế chất dinh dưỡng, phân hủy sinh học dầu và các hợp chất tái tạo, và là một phần của vi sinh vật của động vật biển (Kutty và Philip 2008). Điều này một phần do thực tế là nấm men có tiềm năng chuyển hóa đặc biệt có sẵn để khai thác (Kutty và Philip 2008, Song et al., 2010). Đáng chú ý, phần lớn tiềm năng này vẫn chưa được phát hiện. Một số hợp chất được sản xuất bởi nấm men có các đại lượng sinh học rất lớn như: cellproteins, vitamin, sắc tố, enzyme miễn dịch (Chietal, 2009)

Nồng độ nấm men trong ruột cá rất khác nhau và có thể dao động từ các mức không phát hiện tới 107 CFU/g trong ruột (Gatesoupe, 2007). Điều quan trọng cần lưu ý là các tế bào nấm men có thể lớn hơn hàng trăm lần so với các tế bào vi khuẩn, điều này có thể giải thích thực tế rằng số lượng nấm men thấp (104 CFU/g) qua thức ăn có thể gây ra những tác dụng có lợi cho vật chủ (Tovar và cộng sự, 2002, Tovar-Ramírez và cộng sự, 2004).

 Thực tế, thể tích của tế bào nấm men có thể lớn hơn so với vi khuẩn (200 – 300μm đối với nấm men so với 1μm của vi khuẩn Pseudomonas, Gatsoupe ,2007) và do đó nấm men có ý nghĩa sinh lý thậm chí khi chiếm ít hơn 1% tổng số vi khuẩn phân lập. Do đó, lượng nấm men thấp có thể tương ứng với quy mô dân số đủ để hoạt động trên cơ thể chủ.

Nấm men được xác định từ ruột cá thuộc hai loài: Ascomycota, trong đó Saccharomycetaceae là họ quan trọng nhất, và Basidiomycota, bao gồm chi Rhodotorula (nấm men đỏ thường được phát hiện trong vi sinh vật của cá biển và nước ngọt) (Newman et al. 1972, Andlid và cộng sự, 1995). Nấm men Ascomycota: Metschnikowia zobeliiCandida tropicalis và nấm Tridolomycota của Basidiomycota chiếm ưu thế ở một số loài cá biển. Ascomycota: Debaryomyces hansenii, Candida spp., Saccharomyces cerevisiae và Basidiomycota: Leucosporidium sp. đã thường xuyên được phân lập như là các loài nấm men nổi trội nhất trong ruột cá. Cryptococcus, Pichia, và Saccharomycodaceae cũng đôi khi được phân lập (Gatesoupe 2007).

Người ta đã báo cáo rằng nấm men được phân lập từ ruột của cá hồi vân có thể dính vào và phát triển trong chất nhầy đường ruột (Andlid và cộng sự, 1998). Một số nấm men có thể định cư trong ruột cá khi được đưa vào thức ăn (Waché và cộng sự, 2006). Khả năng bản đại hóa này có thể liên quan đến tính kỵ nước bề mặt tế bào (Vázquez-Juárez và cộng sự, 1997) và khả năng của các chủng này phát triển trên chất nhầy (Andlid et al.1998). Hơn nữa, nấm men có tính năng tăng cường miễn dịch do các thành phần như ß-glucan, mannoprotein, chitin (như một thành phần nhỏ) và axit nucleic (Ortuño và cộng sự, 2002).

Các nghiên cứu đã cho thấy tác dụng có lợi của S. cerevisiae khi bổ sung vào thức ăn cho cá. Chế độ ăn cá bổ sung men này có tác dụng như là các chất làm tăng đáp ứng, tăng năng suất, sự sống sót trên một số loài cá (Welker và cộng sự, 2007, Chiu và cộng sự 2010, Harikrishnan và cộng sự, 2010, Tukmechi và cộng sự, 2011 ).

Gần đây, Hoseinifar et al. (2011) báo cáo rằng nấm men bia không hoạt động trong chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến thành phần vi sinh; mặc dù tổng số vi khuẩn đường ruột không bị ảnh hưởng, nhưng mức LAB tăng lên đáng kể ở cá có ăn. Hầu hết các nghiên cứu đã được công bố đã được thực hiện với Saccharomyces cerevisiae; tuy nhiên, kết quả hứa hẹn cũng đã thu được với Debaryomyces hansenii, đã được đánh giá bằng cá mú và cá mè biển (Reyes Becerril và cộng sự 2008, 2008).

Đăng ngày 02/01/2018
TRỊ THỦY
Dịch bệnh

Sự cần thiết của chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản

Những đợt dịch bệnh không chỉ gây thiệt hại nặng nề mà còn ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín của sản phẩm thủy sản trên thị trường. Để đối phó với thách thức này, chẩn đoán bệnh học thủy sản đã trở thành một công cụ quan trọng, giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe của đàn nuôi, giảm thiểu rủi ro lây lan dịch bệnh và tối ưu hóa quy trình quản lý.

Xét nghiệm tôm
• 16:00 19/11/2024

Tăng cường sản xuất nuôi trồng thủy sản các tháng cuối năm 2024

Trong 9 tháng đầu năm 2024, sản xuất nuôi trồng thuỷ sản của nước ta đã đối mặt với nắng nóng tại miền Trung, khô hạn tại Tây nguyên, xâm nhập mặn tại miền Nam, bão, lũ xảy ra tại các tỉnh phía Bắc.

Tôm thẻ
• 10:44 18/11/2024

Bệnh thường gặp trên cá tra và biện pháp phòng chống

Cục Thủy sản vừa cho biết đặc điểm dịch tễ của một số bệnh thường gặp trên cá tra và biện pháp phòng trị có hiệu quả.

Cá tra
• 10:15 06/11/2024

Thời điểm giao mùa tôm dễ bị bệnh đốm trắng

Thời điểm giao mùa luôn là lúc dễ xảy ra các vấn đề sức khỏe cho tôm, đặc biệt là bệnh đốm trắng - một căn bệnh phổ biến và gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi. Bệnh đốm trắng thường xuất hiện vào những thời điểm khí hậu thay đổi thất thường, chẳng hạn như khi mùa mưa bắt đầu hoặc khi trời chuyển sang lạnh.

Tôm đốm trắng
• 09:55 06/11/2024

Chính thức mở bán: "Thực hành Chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản"

Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam đang cần giải pháp thực tế để vượt qua thách thức cần đối mặt để đạt được sản lượng, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường lúc này.

Sách Thực hành chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản
• 18:30 25/11/2024

Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản là một vấn đề quan trọng nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường.

Kháng sinh
• 18:30 25/11/2024

Nâng cao hiệu quả trong khai thác thủy sản

Để nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản, cần áp dụng các giải pháp đồng bộ từ việc áp dụng công nghệ tiên tiến đến việc cải thiện quản lý nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường.

Thu hoạch thủy sản
• 18:30 25/11/2024

Tạo rào cản cho vi khuẩn hạn chế xâm nhập vào tôm

Một trong những thách thức lớn nhất mà người nuôi phải đối mặt là các bệnh do vi khuẩn gây ra, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất của tôm.

Tôm thẻ
• 18:30 25/11/2024

Xuất khẩu một tháng trở lại tỷ đô sau 27 tháng

Tháng 10/2024, xuất khẩu thủy sản 1,1 tỷ USD, tăng gần 31% so với cùng kỳ năm ngoái và đây là lần đầu tiên sau 27 tháng kể từ tháng 6/2022 đã trở lại mức tỷ đô một tháng. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024 đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái với các mặt hàng chủ lực và các thị trường chính đều tăng.

Tôm thẻ
• 18:30 25/11/2024
Some text some message..