Cá cảnh còn rất khiêm tốn
Hiện nay, cả nước có khoảng trên 500 cơ sở sản xuất giống và ương nuôi cá cảnh tập trung ở một số đô thị lớn như: Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa… Cá cảnh không chỉ được tiêu thụ nội địa mà còn xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.
Bà Huỳnh Thị Kim Cúc, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Tp. Hồ Chí Minh cho biết, hiện nước ta xuất khẩu trên 60 loài cá cảnh, phổ biến như: cá neon, cá dĩa, cá xiêm, cá mô ly, hắc kim, trân châu, bảy màu, hải quỳ, cá mó, khoang cổ, hoàng hậu. Các thị trường xuất khẩu chính của cá cảnh Việt Nam gồm có châu Âu chiếm tỷ trọng 58%, châu Á 28%, châu Mỹ 9,5% và châu Úc chiếm 3,5%.
Trong những năm qua, Tp. Hồ Chính Minh được coi là trung tâm xuất khẩu cá cảnh của cả nước. Trong 10 tháng đầu năm 2015, sản lượng cá cảnh xuất khẩu của Tp. Hồ Chính Minh đạt hơn 11 triệu con (trong đó có hơn 9 triệu con cá cảnh nước ngọt) với tổng giá trị xuất khẩu đạt 9,7 triệu USD.
Ông Lê Đức Liêm, Phó phân viện trưởng Phân viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản phía Nam nhận định, dù có tiềm năng nuôi cá cảnh rất lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu của cá cảnh hàng năm của Việt Nam chỉ vào khoảng 10-12 triệu USD, kém xa so với Singapore (300 triệu USD/năm), Thái Lan và Indonesia (50-70 triệu USD/năm)...
Chưa được quan tâm đúng mức
Các doanh nghiệp xuất khẩu cá cảnh cho rằng hiện nay chất lượng, chủng loại cá giống chưa đảm bảo, đơn điệu là vấn đề quan trọng nhất khiến xuất khẩu cá cảnh Việt Nam chậm phát triển.
Chẳng hạn, theo ông Tống Hữu Châu, Chủ trang trại Châu Tống (Tp.Hồ Chí Minh), trước đây nhiều doanh nghiệp xuất khẩu được giống cá xiêm đá với giá 0,5-0,8 USD/con nhưng gần đây thị trường này không mua cá xiêm Việt Nam mà mua cá xiêm Thái Lan với giá cao hơn (0,9 USD/con). Nguyên nhân là giống cá xiêm ở Việt Nam bị thoái hóa, chỉ có thể dài tới 3cm, trong khi cá Thái Lan có thể đạt chiều dài 4-5 cm. Đối với cá bảy màu, nước ta chỉ có đơn điệu vài giống, trong khi thế giới có đến 50 giống nên không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người chơi cá cảnh thế giới…
Còn ông Lê Hữu Thiện, Giám đốc Công ty Sinh vật cảnh Thiên Đức (Tp Hồ Chí Minh) cho hay, hiện nay Việt Nam chưa cho nhập khẩu nhiều giống cá cảnh, trong khi những giống cá cảnh này đã được nhiều nước sản xuất hàng chục năm nay và cho thấy có chất lượng tốt, giá thành cạnh tranh. Chính vì khó khăn về nhập khẩu giống cá cảnh theo đường chính ngạch nên nhiều giống cá cảnh được sản xuất ở Việt Nam đang bị thoái hóa, dẫn đến mất dần khách hàng nước ngoài.
Về phía quản lý nhà nước, ông Trần Đình Vĩnh, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng và BVNLTS Tp. Hồ Chí Minh thừa nhận, xuất khẩu cá cảnh còn khiêm tốn có một phần lỗi không nhỏ của cơ quan Nhà nước, bởi đến nay chỉ có một vài đô thị coi cá cảnh là đối tượng kinh tế quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Thậm chí ngay tại Tp Hồ Chính Minh, cá cảnh mới được đưa vào danh sách đối tượng nuôi thủy sản quan trọng từ năm 2011.
Bà Huỳnh Thị Kim Cúc, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Tp. Hồ Chí Minh cho rằng hầu hết các cơ sở sản xuất, ương dưỡng cá cảnh có quy mô sản xuất chưa tập trung, còn phân tán nhỏ lẻ, chưa tiếp cận nhiều với khoa học mới về lai tạo cá cảnh, thuần dưỡng sinh sản cá cảnh tự nhiên. Thêm vào đó, khả năng tài chính của các cơ sở cá cảnh còn hạn chế làm ảnh hưởng đến đầu tư là những yếu tố làm khó ngành cá cảnh Việt Nam.
Ngoài ra, xuất khẩu cá cảnh còn đang gặp phải một rào cản lớn là những quy định khắt khe về an toàn dịch bệnh mà nhiều nước đưa ra dựa trên các quy định của Tổ chức Thú y thế giới, Hiệp định an toàn vệ sinh động thực vật của WTO. Tuy nhiên, theo ông Lê Đức Liêm, Phó phân viện trưởng Phân viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản phía Nam, các cơ sở cá cảnh ở Việt Nam chưa đáp ứng đủ điều kiện về giám sát an toàn dịch bệnh do điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế.
Để xuất khẩu cá cảnh “cất cánh”
Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam cho biết, Việt Nam có thể phát triển ngành cá cảnh hơn nữa, tăng kim ngạch xuất khẩu hằng năm lên 40-50 triệu USD, thay vì chỉ 10-12 triệu USD/năm như hiện nay. Để làm được điều này, cần xây dựng thương hiệu cá cảnh Việt Nam, đánh thức tiềm năng của ngành này.
Cụ thể, theo bà Huỳnh Thị Kim Cúc, giải pháp để phát triển ngành cá cảnh là phải đảm bảo quản lý Nhà nước, hướng dẫn các cơ sở sản xuất cá cảnh an toàn, giám sát dịch bệnh đủ điều kiện xuất sang Mỹ, EU. Đồng thời, tập trung lai tạo những giống loài mới, nghiên cứu sinh sản nhân tạo những loài cá cảnh quý hiếm có giá trị kinh tế cao như: cá dĩa (giá bán 50-80 USD/con), cá còm, chạch, thái hổ, neon…
Ngoài ra, các ngành chức năng cần lập trang thông tin điện tử về cá cảnh để quảng bá, giới thiệu danh sách cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước để khách hàng trong và ngoài nước tiện giao dịch. Quan trọng nhất là cần thực hiện các giải pháp tăng cường xúc tiến thương mại, tìm đầu ra cho cá cảnh sản xuất trong nước.