Tôm tít hay còn gọi là bề bề, hay tôm bọ ngựa, có tên tiếng anh là mantis shrimp, loài tôm thuộc bộ Stomatopoda (bộ chân miệng). Theo một số tài liệu công bố thì ở vùng biển Việt Nam có 8 họ thuộc bộ Stomatopoda, trong đó họ Squillidae chiếm ưu thế (11 giống, 18 loài), bao gồm nhiều loài có giá trị kinh tế. Qua đánh giá sơ bộ ở vùng biển Cà Mau, Kiên Giang xác định được 4 loài thuộc họ Squillidae, bao gồm loài Erugosquilla woodmasoni, Harpiosquilla harpax, Miyakea nepa và Oratosquillina interrupta. Trong đó có 3 loài có kích thước lớn, sản lượng nhiều và có ở các vùng biển, do đó chúng rất có triển vọng cho nghề nuôi và sản xuất giống trong tương lai, đó là loài Harpiosquilla harpax, Miyakea nepa và Oratosquillina interruptaHarpiosquilla harpax, Miyakea nepa và Oratosquillina interrupta. Trên thế giới có hơn 180 loài tôm tít thuộc 47 chi, riêng ở Hàn Quốc có 7 loài thuộc họ Squillidae bao gồm Levisquilla inermis, L. jurichi, Anchisquilla fasciata, Cloridopsis scorpio, Kempella mikado, Oratosquilla oratoria và Squilloides leptosquilla.
Sự khác biệt giữa 2 loại tôm tít. Ảnh: Hồng Huyền
Tôm tít sống trong hang nơi chúng dành phần lớn thời gian. Môi trường sống rất quan trọng đối với hệ sinh thái của chúng vì chúng sử dụng hang làm nơi ẩn náu và làm nơi tiêu thụ con mồi. Các hang và hốc san hô cũng được sử dụng làm nơi giao phối và giữ an toàn cho trứng của chúng. Kích thước cơ thể của động vật chân đốt trải qua quá trình tăng trưởng định kỳ đòi hỏi phải tìm một hốc hoặc hang mới phù hợp với đường kính mới của động vật. Một số loài có thể thay đổi môi trường sống đã thiết lập sẵn của chúng nếu hang được làm bằng phù sa hoặc bùn, và mở rộng.
Tôm tít là kẻ săn mồi ghê gớm, có thể cắt đôi một con tôm đang bơi hoặc đập vỡ vỏ của các loài hai mảnh vỏ với hai chân hàm trên thứ hai. Mặc dù tấn công xảy ra dưới nước, nó là một trong những cuộc tấn công nhanh nhất, di chuyển với vận tốc 1.000 cm/s. Về cơ bản, bất kỳ động vật nào có kích thước phù hợp có thể trở thành con mồi của động vật chân đốt này bao gồm cá, tôm, cua, giun đốt, nghêu, trai, ốc, mực và động vật da gai. Ấu trùng thường gặp theo bầy đàn, đặc biệt là ở vùng biển nhiệt đới. Các giai đoạn ấu trùng sinh vật phù du chiếm một phần đáng kể một phần trong chế độ ăn của cá rạn san hô và thương mại các loài cá nổi quan trọng như cá ngừ, cá ngừ vằn, cá thu, cá trích và cá hồng.
Tôm tít được ưa chuộng vì thịt ngọt, tươi ngon và có thể dùng để chế biến thành nhiều món ăn ngon, hấp dẫn. Ảnh: giangghe.com
Tôm tít có nhiều dọc bờ biển Việt Nam, tiếng Việt gọi là bề bề hay tôm bọ ngựa. Ở những vùng như Nha Trang, chúng được gọi là bàn chải, được đặt tên vì nó trông giống như một cái bàn chải chà. Tôm có thể hấp, luộc, nướng, hoặc sấy khô, dùng với tiêu, muối chanh, nước mắm và me, hoặc thì là. Trong ẩm thực Nhật Bản, loài tôm tít Oratosquilla oratoria, được gọi là shako, được ăn luộc như một loại topping cho sushi, và đôi khi ăn sống như sashimi. Trong ẩm thực Quảng Đông, tôm tít gọi là "tôm đi tiểu" vì chúng có xu hướng bắn tia nước khi cầm lên. Một cách chế biến phổ biến đầu tiên là chiên ngập dầu, sau đó xào với tỏi và ớt. Chúng cũng có thể được luộc hoặc hấp. Ở các nước Địa Trung Hải, tôm tít Squilla mantis là một loại hải sản phổ biến, đặc biệt là ở bờ biển Adriatic (Canocchia) và Vịnh Cádiz (Galera). Ở Philippines, tôm tít được gọi là tatampal, hipong-dapa, pitik-pitik, hoặc alupihang-dagat, được nấu chín và ăn như bất kỳ loại tôm nào khác. Ở Kiribati, tôm tít được gọi là te waro trong tiếng Gilbertese có rất nhiều và được luộc chín để ăn.