Ức chế sự phát triển của V. harveyi và Saprolegnia sp. nhờ chiết xuất lá bần

Tỷ lệ sống của ấu trùng tôm sú được cải thiện khi nhiễm V.harveyi và Saprolegnia sp. nhờ chiết xuất lá bần.

Chiết xuất lá bần
Chiết xuất lá bần ức chế phát triển mầm bệnh trên tôm sú.

Bất lợi chính trong nuôi trồng thủy sản là dịch bệnh bùng phát đột ngột, với mức thiệt hại kinh tế nghiêm trọng trên toàn thế giới. Nguyên nhân gây chết phổ biến xảy ra ở giai đoạn ấu trùng trong trại giống đến giai đoạn hậu ấu trùng trong ao nuôi thương phẩm, thậm chí ngay trước khi thu hoạch của tôm sú là do vi khuẩn Vibrio harveyi và nấm Saprolegnia sp.

Công tác phòng chống dịch bệnh vẫn chưa được giải quyết triệt để do sử dụng nhiều hóa chất, kháng sinh. Việc sử dụng các hóa chất này thường không được kiểm soát nên dẫn đến tình trạng vi khuẩn kháng thuốc và gây độc cho tôm. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chiết xuất từ thực vật có hoạt tính chống lại nấm và vi khuẩn trong đó là chiết xuất từ lá bần (Sonneratia alba) là một ví dụ điển hình.

Cây bần có tiềm năng như một chất chống vi khuẩn, chống oxy hóa và có thể được sử dụng trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, dược phẩm và y học. Nghiên cứu này chứng minh chiết xuất lá bần có thể ức chế sự phát triển của V. harveyi, Saprolegnia sp. và cải thiện tỷ lệ sống cho ấu trùng tôm sú.

Lá của bần được làm sạch và để ráo ở nhiệt độ phòng không tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Sau khi làm khô, các mẫu được cắt nhỏ và ngâm với ba dung môi: 80% etanol, nước ngọt và nước mặn ở độ mặn 20 ‰ trong 24 giờ.

Ấu trùng tôm (PL 8) được gây nhiễm bệnh với nồng độ 106 cfu/g, tương ứng với các nghiệm thức:

  • Chiết xuất lá bần trong 80% ethanol (SE) với 3 nồng độ: 750, 1.000 và 1.250 ppm
  • Chiết xuất lá bần trong nước ngọt (SW) với 3 nồng độ: 750, 1.000 và 1.250 ppm
  • Chiết xuất lá bần trong nước biển (SS) với 3 nồng độ: 750, 1.000 và 1.250 ppm
  • Đối chứng dương (C+): sử dụng kháng sinh oxytetracycline
  • Đối chứng âm (C-): nước muối 0,85% (PBS)

Tôm hoạt động bình thường và khỏe mạnh sau khi sử dụng chiết xuất lá bần, tuy nhiên cơ thể của tôm chuyển sang hơi xanh. Sự thay đổi màu sắc này cho thấy sự hấp thụ chiết xuất lá bần vào cơ thể, nguyên nhân là do sự mở rộng lớp biểu bì của tôm.

Tôm có biểu hiện yếu ớt và giảm cảm giác thèm ăn sau khi bị nhiễm V. harveyiSaprolegnia, các triệu chứng lâm sàng thậm chí còn nghiêm trọng hơn ở nghiệm thức đối chứng âm như: yếu ớt, giảm ăn, phản xạ chậm và yếu, cơ thể hơi đỏ. Trong nghiên cứu này, chiết xuất từ lá bần có thể ức chế sự tấn công của V. harveyiSaprolegnia sp, chính vì thế triệu chứng lâm sàng của các nghiệm thức sử dụng chiết xuất lá bần ít nghiêm trọng hơn so với đối chứng âm.

Đuôi và chân của một số con tôm ở các nghiệm thức sử dụng chiết xuất lá bần nồng độ 750ppm khi kiểm tra bệnh lý chỉ thấy hơi đỏ. Trong khi tôm nhóm đối chứng âm tính (C-) cho thấy sự tấn công của vi khuẩn Vibrio trên đuôi, chân, mang và đỏ toàn thân. Một số tôm bị biến dạng và lột xác không thành công, dẫn tới chết. Tôm bị nhiễm Saprolegnia nhóm C- cho thấy chân và thân bị sậm màu, trong khi tôm sử dụng chiết xuất lá bần thì bình thường.

Khả năng kháng khuẩn của chiết xuất lá bần có thể so sánh với thuốc kháng sinh. Chiết xuất lá bần trong methanol cho thấy vùng ức chế 15 mm đối với Salmonella typhi. Chiết xuất lá bần trong axeton cho thấy vùng ức chế 14 mm chống lại vi khuẩn Listeria monocytogenes. Trong nghiên cứu này, vùng ức chế của chiết xuất lá bần trong ethanol 1.000 ppm đối với V. harveyi là 12,67 mm, và Saprolegnia là 12,00 mm.

Tỷ lệ nhiễm V. harveyiSaprolegnia sp. ở nghiệm thức sử dụng chiết xuất lá bần, cho thấy hoạt tính sinh học của bần có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh. Mức độ tấn công trung bình của V. harveyi Saprolegnia sp ở nghiệm thức sử dụng chiết xuất lá bần tương ứng là 12,67-56,67%, và 2,33-47,33% trong khi mức độ tấn công trung bình của V. harveyiSaprolegnia sp. đối chứng âm là 75,00-81,33% và 69,33- 72,33%.

Tỷ lệ sống của tôm nhiễm V. harveyi cao nhất ở nghiệm thức sử dụng lá bần trong nước mặn (SS: 81,33%) và ethanol (SE: 80,67%) với nồng độ 1250 ppm, trong khi đối chứng dương tính (C+: 73,33%) và đối chứng âm (C-: 35,00%). Tỷ lệ sống của tôm bị nhiễm Saprolegnia sp cao nhất nghiệm thức SS 1.250 ppm là 78,33%, tiếp theo là SE, SW 1.250 ppm và thấp nhất là C- 37,33%.

Khả năng bảo vệ ấu trùng tôm sú chống lại sự tấn công của V. harveyi của chiết xuất lá bần nồng độ 1250ppm trong ba dung môi so với kháng sinh là không khác biệt. Cách xử lý tốt thứ hai là nồng độ 1.000 ppm trong ethanol và 1.000 ppm trong nước mặn. Khả năng chống lại Saprolegnia sp. tốt nhất của chiết xuất lá bần 1.250 ppm trong nước mặn. Tốt thứ hai là 1.250 ppm trong ethanol, tiếp theo là 1.250 ppm trong nước ngọt.

Chiết xuất lá bần có khả năng ức chế sự lây nhiễm của vi khuẩn V. harveyi, nấm Saprolegnia sp. và cải thiện tỷ lệ sống của ấu trùng tôm sú. Khả năng ức chế các vi khuẩn có thể thấy được từ kết quả kiểm tra tổng số lượng Vibrio (TVC) cho thấy hàm lượng TVC trên tôm khi sử dụng chiết xuất lá bần có giá trị thấp, đặc biệt là trong dung môi ethanol và nước biển. Chiết xuất lá bần có khả năng bảo vệ ấu trùng tôm sú khỏi sự tấn công của vi khuẩn vì loại cây này có chứa các thành phần kháng khuẩn. Do đó thực vật rừng ngập mặn là một nguồn cung cấp tốt các hợp chất kháng khuẩn như: steroid, triterpenes, saponin, flavonoid, alkaloid và tannin.

Đăng ngày 02/10/2020
Sương Phạm
Nguyên liệu

Chín nguyên liệu thức ăn thủy sản giàu protein đầy hứa hẹn

Một báo cáo được biên soạn với sự hỗ trợ từ Quỹ Moore của Hatch Blue, đã đi sâu vào chín thành phần thức ăn thủy sản giàu protein hứa hẹn nhất. Theo đó, báo cáo về Thành phần giàu protein mới nổi cho nuôi trồng thủy sản nhằm xác định các thành phần hứa hẹn nhất để bổ sung cho các nguồn protein hiện có, mở rộng giỏ nguyên liệu thô và thu hẹp khoảng cách về protein trong thức ăn thủy sản.

Thức ăn
• 12:31 21/04/2024

Lợi hay hại khi kháng sinh trở nên phổ biến hơn

Trong ngành nuôi trồng thủy sản ngày nay, việc áp dụng các sản phẩm xử lý và cải thiện môi trường bằng kháng sinh là không thể tránh khỏi. Kháng sinh là nhóm thuốc có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc được tổng hợp trong môi trường nhân tạo, có khả năng tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của vi khuẩn, bao gồm cả các vi khuẩn có hại và lợi.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:08 15/04/2024

Giun biển làm thức ăn thủy sản

Nghiên cứu mới đã cho thấy tiềm năng của giun enchytraeid, loài ăn các vật liệu hữu cơ như rong biển mục nát, như một sự thay thế bền vững hơn cho các thành phần thức ăn thủy sản truyền thống.

Giun biển
• 09:57 15/04/2024

Nên dùng thảo dược nào cho tôm thẻ?

Tập trung tìm kiếm các giải pháp thay thế từ tự nhiên, đó chính là thảo dược!

Thảo dược
• 08:00 10/04/2024

Chiết xuất Yucca giúp tăng cường sức khỏe vật nuôi, cải thiên chất lượng nước ao nuôi

Cây Yucca schidigera thuộc họ Agavaceae là dòng cây bản địa ở sa mạc Mojave và sa mạc Sonoran thuộc đông nam California, ở nam Nevada, tây Arizona. Mặt khác, nó cũng là loài bản địa ở Mexico.

Cây Yucca
• 20:15 23/04/2024

Tuyên truyền pháp luật về biển, đảo cho ngư dân các xã ven biển

Trong 03 ngày, từ 22 – 24/4/2024, tại các xã Cát Tiến, Cát Khánh (huyện Phù Cát) và phường Tam Quan Nam (thị xã Hoài Nhơn), Sở Ngoại vụ tỉnh Bình Định tổ chức tuyên truyền một số văn bản pháp luật quy định về biển, biên giới trên biển và các vấn đề có liên quan đến biển, đảo cho ngư dân các xã ven biển trên địa bàn tỉnh.

Biển đảo Việt Nam
• 20:15 23/04/2024

Ra khơi đi tìm kho báu dưới đáy biển

Trào lưu "ra khơi tìm kho báu"  đang xuất hiện rầm rộ và làm dậy sóng cộng đồng mạng những ngày qua, kho báu này có xác thực hay không thì còn là một ẩn số. Tuy nhiên, trong bài viết dưới đây, Tép Bạc sẽ giúp bạn đọc 4 kho báu có thật dưới lòng đại dương. Mời bạn đọc cùng tham khảo nhé!.

Lặn biển
• 20:15 23/04/2024

Giảm thiểu tác động từ biến đổi khí hậu đến hoạt động nuôi trồng thủy sản

Biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn đối với sản xuất lương thực toàn cầu - bao gồm thủy sản và nuôi trồng thuỷ sản. Nó trực tiếp tác động, làm thay đổi các yếu tố môi trường sinh thái của động vật thủy sản ngoài tự nhiên và trong ao nuôi, do đó ảnh hưởng đến các hoạt động khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản.

Nuôi trồng thủy sản
• 20:15 23/04/2024

Rong xuất hiện nhiều trên vuông nuôi tôm

Hàng năm vào những thời điểm giao mùa, điều kiện thời tiết thường diễn biến phức tạp, không thuận lợi cho tôm nuôi phát triển, nguy cơ rủi ro và thiệt hại về dịch bệnh trên tôm nuôi là rất cao. Đặc biệt ở ao nuôi tôm quảng canh, rong xuất hiện rất nhiều và gây ra các ảnh hưởng trực tiếp đến vật nuôi dưới ao.

Rong tảo dày đặc
• 20:15 23/04/2024